Dòng
họ - họ tộc là mạch nguồn xây dựng con người Việt Nam có một nền tảng văn hóa,
có lòng yêu nước, tinh thần cốt cách Việt Nam rất riêng biệt.
Theo
thống kê sơ bộ cả nước hiện có khoảng trên 300 dòng họ, mỗi một dòng họ là một
gốc gác tổ tiên của dòng họ đó nhưng cùng chung cội nguồn là họ Hồng Bàng, của
dòng dõi “con lạc cháu rồng”.
Trải
qua nhiều trăm năm lịch sử mà tộc phả còn nối truyền, con cháu họ Đồng hiện có
mặt ở khắp mọi vùng miền trong cả nước, có hậu duệ ở nhiều nước trên thế giới.
Dòng họ Đồng ở Việt Nam tự hào có truyền thống hiếu kính tổ tiên “Chim có tổ,
người có tông”, có danh nhân – khoa bảng, có văn quan – võ tướng ở các thời kỳ;
đặc biệt hơn là có truyền thống tu hành, tiếc rằng chưa có tư liệu đủ đầy, cũng
như chưa có thời gian tham chiếu để thống kê hết chân dung các vị tu hành trong
lịch sử họ Đồng.
Như
chúng ta đã biết đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ trước Công nguyên đến nay đã
trên 2000 năm. Theo sử sách ghi lại từ các truyền thuyết và cổ tích dân gian
Việt Nam, người Việt Nam
đầu tiên theo đạo Phật là phật tử Chử Đồng Tử được nhà sư Phật Quang truyền
đạo.
Kể
từ đó dân chúng Việt Nam
bắt đầu biết đến đạo Phật và một bộ phận dân chúng quy y theo đạo Phật, cũng
như chịu ảnh hưởng của văn hóa và tín ngưỡng Phật giáo. Từ đó, có người đã phát
tâm xuất gia tu hành, vào đầu công nguyên các danh tăng Việt Nam nổi tiếng xuất hiện như Mâu Tử,
Khương Tăng Hội,...
Trải
qua các thời kỳ Hai Bà Trưng phất cờ đòi chủ quyền và độc lập dân tộc, cho đến
các triều đại Đinh – Tiền Lê- Lý – Trần- Lê- Mạc- Nguyễn, thời kỳ nào Phật giáo
cũng được triều đình và nhân dân coi trọng. Đặc biệt, nổi bật hơn cả là triều
Trần, có đức vua Trần Nhân Tông xuất gia tu Phật trên đỉnh Yên Tử lập nên Thiền
phái Trúc Lâm Việt Nam. Cũng chính giai đoạn này, một danh tăng họ Đồng đã làm
rạng danh cho lịch sử Phật giáo Việt Nam đó là Nhị Tổ Trúc Lâm- Pháp Loa
(thế danh Đồng Kiên Cương).
1. THIỀN SƯ PHÁP LOA (1284 – 1330)
Trong
lịch sử các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, Thiền sư Pháp Loa là một trong
những vị Thiền sư tiêu biểu nhất, đã quy tụ và chinh phục được các hàng vương
tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình trong việc xiển
dương Phật pháp.
Thiền
sư Pháp Loa cũng là người đã đề xuất, kết tập và tiến hành in ấn bộ Đại Tạng
kinh Việt Nam;
Thiền
sư cũng là nhà sư đầu tiên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo,
thiết lập một tổ chức Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên;
Thiền
sư cũng là người khởi xướng thiết lập sổ bộ tăng, ni và tự viện để quản lý
tăng, ni, tự viện một cách khoa học, hệ thống trên khắp cả nước. Sinh
thành trong gia thế và văn hóa dòng họ
Thiền
sư sinh giờ Mão, ngày 07/05/Giáp Thìn (1384) tại thôn Đồng Hòa, hương Cửu La,
xã Phù Vệ ở gần sông Nam Sách, cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu.
Thuở
bé Thiền sư đã có những đức tính khác thường, không nói lời độc ác, không ăn
thịt cá và các thức ăn cay nồng.
Năm
1304, Trúc Lâm (Trần Nhân Tông) đi du
hành khắp miền thôn quê, phá bỏ các dâm từ, thuyết pháp và bố thí, lại vừa có ý
tìm người nối dòng pháp.
Khi
Trúc Lâm đến sông Nam Sách thì Thiền sư đang đi chơi xa, bỗng thấy lòng bồn
chồn, liền quay về, vừa lúc gặp Trúc Lâm, Thiền sư đỉnh lễ xin xuất gia. Trúc
Lâm thoạt trông thấy lấy làm lạ, bảo: "Đứa bé này có đạo nhãn, ngày sau ắt
sẽ thành bậc pháp khí". Trúc Lâm đặt tên cho ngài là Thiện Lai và gửi
Thiền sư đến tu học với Hòa thượng Tính Giác.
Thiền
sư thưa hỏi nhiều điều mà Hòa thượng vẫn chưa khai thông được; khi đọc kinh
Lăng Nghiêm, đến đoạn "Thất xứ trung tâm, hậu khách trần dụ: bảy lần trình
bày tâm, cuối cùng đến ví dụ khách trần", Thiền sư suy nghĩ giây lâu, bỗng
được thể nhập, liền xin phép trở về thăm Trúc Lâm gặp lúc Trúc Lâm thăng đường
cử bài tụng Thái Dương Ô kệ, thì trong lòng chợt tỉnh.
Thiền
sư trình Trúc Lâm một bài tụng Tâm Yếu, bốn lần cầu thỉnh, Trúc Lâm vẫn chưa
chỉ giáo.
Trở
về phòng, nỗ lực Thiền quán, đến nửa đêm, nhận thấy hoa đèn rơi, Thiền sư bỗng
nhiên đại ngộ. Liền đem chỗ sở ngộ ấy trình lên Điều Ngự ấn chứng. Từ đó, Sư
phát nguyện tu 12 hạnh đầu đà, theo gương của Trúc Lâm.
Năm
1305, Thiền sư được Trúc Lâm cho thọ giới Tỳ kheo và Bồ tát và ban hiệu là Pháp
Loa.
Năm
1307, ngày Rằm tháng 5, sau khi Bố tát, Trúc Lâm lấy y bát và viết tâm kệ giao
cho Thiền sư Pháp Loa tại Am Ngọa Vân; ngày Một tháng Giêng năm 1308, Điều Ngự
chính thức trao truyền ngôi Tổ thứ hai phái Trúc Lâm cho Thiền sư tại chùa Siêu
Loại. Buổi lễ này được tổ chức vô cùng trọng thể, có vua Anh Tông và triều thần
đến dự đông đủ.
Trong cuộc đời tu học của mình,
Thiền sư là người nổi bật nhất trong các Thiền sư Việt Nam đã trao truyền giới pháp cho
hầu hết giới quý tộc, lãnh đạo quốc gia thời kỳ đó.
Trong
vòng 22 năm hoạt động phật sự, Thiền sư đã mở 13 giới đàn, tiếp độ cho hàng
trăm thành viên của hàng vương thân quốc thích, và khoảng 15 ngàn tăng, ni;
trong đó có khoảng 3.000 đệ tử đắc pháp.
Thiền
sư không chỉ quan tâm đến việc trao truyền giới pháp mà còn rất chú ý đến việc
diễn giảng các bộ kinh luật quan trọng để các đệ tử hiểu rõ đường lối tu hành.
Thiền sư đã mở hàng chục khóa giảng, mỗi khóa giảng, thính chúng đến nghe hằng
nghìn người. Khóa nào ít nhất cũng trên năm, sáu trăm người.
Thiền
sư là bậc chân tu đã có công ghi chép các tư liệu, biên tập thành sách, gồm các
tập: Thạch Thất Mị Ngữ Niêm Tụng vào năm 1308; Tham
Thiền Chỉ Yếu, soạn năm 1322, theo lời yêu cầu của Thượng hoàng Minh Tông;Kim
Cương Trường Đà-la-ni Kinh Khoa Chú: Phân tích chú giải kinh Kim Cương
Trường-đà-la-ni và các quyển: Niết-bàn Đại Kinh Khoa Sớ: Phân tích và sớ giải
kinh Đại Niết-bàn; Pháp Hoa Kinh Khoa
Sớ: Phân tích và luận giải kinh Pháp Hoa; Lăng-già Kinh Khoa Sớ: Phân tích và
luận giải kinh Lăng-già; Bát-nhã Tâm Kinh Khoa Sớ: Phân tích và luận giải Tâm
Kinh Bát-nhã; Pháp Sự Khoa Văn: Nghi
thức và sớ điệp dùng trong các nghi lễ…
Những
tác phẩm trên đây, rất tiếc, ngày nay phần lớn đều mất cả, chỉ còn một ít tư
liệu rời rạc được tập họp lại thành sách Thiền Đạo Yếu Học, hiện còn lưu
truyền.
Ngoài
những sáng tác kể trên, Thiền sư còn đứng ra chủ xướng in Đại Tạng kinh, một
công trình văn hóa Phật giáo nổi bật đời Trần.
Xiển
dương phật sự & hoạt động xã hội: Thiền sư đã chú trọng diễn giảng,
in ấn kinh sách là nhằm phát triển giáo dục, nâng cao trình độ tu học cho tăng,
ni, phật tử, đồng thời Thiền sư cũng quan tâm đến việc củng cố niềm tin tôn
giáo cho giới phật tử phổ thông bằng cách tạc hình, đúc tượng các vị Phật và Bồ
tát, tôn trí tại các ngôi già lam để cho tín đồ tiện việc chiêm ngưỡng và lễ
bái.
Sử
sách còn ghi chép, năm 1314, Thiền sư đã cho đúc ba tượng Phật cao 17m; năm
1327 đúc xong pho tượng Phật Di-lặc cao 1 trượng 6 và tượng các Thánh Tăng.
Để
tạo điều kiện cho tăng, ni và phật tử có nơi thuận tiện tu học và lễ bái, Thiền
sư đã đứng ra khai sơn các cảnh chùa, kiến tạo Tăng xá và xây dựng các ngôi Bảo
tháp. Theo thống kê thì Thiền sư đã khai sơn hai cảnh chùa lớn, xây năm ngôi
tháp và kiến tạo hơn 200 tăng xá.
Bố
thí, trai đàn, cầu mưa, tháng 10 năm 1319 gặp trời hạn hán, dân chúng đói khổ,
vua xuất của kho riêng hơn 100 lượng vàng và 500 lượng bạc, giao cho Thiền sư
mở hội bố thí cho những người nghèo đói.
Tháng
3 năm 1328, Thiền sư tập họp chư tăng 10 phương, thiết lễ Đại trai đàn khánh
thành Đại Tạng kinh vừa in xong. Đại Tạng này bắt đầu in từ năm 1319, sau 10
năm, công việc mới hoàn tất.
Ngoài
việc lập đàn, chẩn tế, bố thí, Thiền sư còn chú trọng các hoạt động xã hội, từ
thiện hướng đến nhân dân và người nghèo khó.
Thiền
sư là một người toàn diện, về mặt nào cũng tỏ ra đầy đủ bản lĩnh. Không những
lưu tâm đến việc trao truyền giới pháp, thuyết giảng luật luận, soạn thuật kinh
sách, mà Thiền sư còn chăm lo đào tạo tăng tài, mở mang tùng lâm thắng cảnh,
lưu tâm đến việc cứu tế xã hội v.v… Người xưa nói, có ba việc bất hủ để tiếng
thơm lại cho muôn đời, đó là: lập đức, lập công và lập ngôn. Nghĩa là để lại
gương sáng đức hạnh, sự nghiệp lợi tha và công trình trước tác. Trong ba điều
ấy, quả thực, Thiền sư đều hội đủ.
2.
HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN (1924 – 2001)
Hòa
thượng Thích Đức Nhuận pháp danh Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14
tháng Chạp năm Quý Hợi (thứ 7 ngày 19 tháng Giêng năm 1924).
Hòa
thượng quê quán ở làng Lạc Chánh, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường,
tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Xuân và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị
Thìn hiệu Trinh Thục.
Hòa
thượng xuất gia năm 1937, năm 1941 được thụ Sa di giới tại chùa Cổ Lễ, năm 1942
thụ Đại giới Tỳ Khưu tại giới đàn Tổ đình Phú Ninh.
Hòa
thượng đã học tại các tổ đình Phú Ninh; Phật học viện chùa Cồn (Nam Định); Tổ
đình Tế Xuyên (Hà Nam); Phật học viện Báo Quốc (Huế); Phật học đường Ấn Quang
(Sài Gòn).
Năm
1949, Hòa thượng đảm nhận chức vụ Phó chủ tịch Hội Phật Giáo Nam Định (Miền
Xuân Trường Hải Hậu), năm 1950, Hòa thượng xin cáo chức trở về sống nếp sống
của một tăng sĩ, tiếp tục sự nghiệp học vấn và nghiên cứu Phật học.
Đầu
năm 1954, Hòa thượng vào Nam
sống cuộc đời tĩnh tu. Năm 1956-1957, được sự tín nhiệm của chư tăng cử giữ
chức chủ tịch (trị sự trưởng) Giáo Hội Tăng già Bắc Việt tại Miền Nam (GHTGVN).
Năm
1959-1961, giữ chức uỷ viên văn hoá Tổng hội Phật giáo Việt Nam; năm 1962-1963,
đảm nhận chức tổng thư ký Giáo hội Tăng Già Việt Nam; năm 1963, khởi động phong
trào đầu tiên chống chế độ độc tài nhà Ngô Đình Diệm (tại Sài Gòn) trong vụ
triệt hạ cờ Phật giáo và đàn áp phật tử tại Huế, nhân mùa Phật đản PL.2507
(1963).
Năm
1964-1965, giữ chức vụ trưởng vụ kiểm duyệt GHPGVNTN; năm 1965-1966, chủ nhiệm
kiêm chủ bút nguyệt san Vạn Hạnh, năm 1969-1973, Hòa thượng là Giáo sư phân
khoa Phật học và triết học Đông Phương Viện Đại học Vạn Hạnh, năm 1967-1973,
Hòa thượng giữ chức chánh thư ký Viện Tăng Thống, năm 1969-1971, Hòa thượng tổ
chức trùng tu tổ đình Giác Minh - nguyên trụ sở Giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại
Miền Nam.
Năm
1971-1972, Hòa thượng làm chủ bút nguyệt san Hoá Đạo; năm 1975-1987, đảm trách
trụ trì tổ đình Giác Minh.
Năm
1993 đến năm 1996, Hòa thượng tĩnh tu tại chùa Giác Minh, Sài Gòn. Hòa thượng
vẫn tiếp tục đọc, viết sách về đường hướng phát triển của Phật giáo Việt Nam.
Hòa
thượng đã tham gia viết bài cho các Nhật báo: Thời Luận, Tin Sáng, Dân chủ, Gió
Nam, và các tạp chí: Phật giáo Việt Nam, Văn Hoá Á Châu, Liên Hoa, Văn, Vấn Đề,
Tư Tưởng…..Hòa thượng cũng đã diễn thuyết về đề tài Phật giáo và Văn hóa dân
tộc tại các trường Đại học Văn khoa Sài gòn, Trường Quốc gia Âm nhạc và kịch
nghệ Sài Gòn, Viện Phật Học Vạn Hạnh (1970) và đã đề tựa, sáng tác hàng chục
tác phẩm có giá trị về mặt tôn giáo và văn học.
Hòa
thượng cũng đã tham gia dịch các bản dịch kinh: Những điều Phật dạy - Phật
Thuyết Tứ Thập Nhị Chương; Lời dạy cuối cùng của đức Phật- Thùy Bát Niết Bàn
Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (cả hai tác phẩm trên nguyên văn chữ Hán trích trong
“Thánh Điển Yếu Tập” chùa Giác Minh ấn tống 1980-1995, ký tên: Thái Không).
Khái niệm triết lý kinh hoa nghiêm, Viện
Triết Lý Việt Nam và Triết
học Thế Giới tại California,
U.S.A ấn hành 1999.
Những
năm cuối cuộc đời, chư Tăng và tín đồ theo học hỏi rất đông.
Ngày mồng 8
tháng Chạp năm Tân Tỵ (2001), Hoà Thượng cảm thấy không khỏe, mặc dù được các
hàng đệ tử, các bác sĩ tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược tận tình chăm sóc chữa trị,
nhưng vì tuổi cao sức yếu, nên đã thâu thần viên tịch vào lúc 16 giờ 53 phút
chiều ngày thứ hai, 21 tháng Giêng năm 2002 (09/12/Tân Tỵ) hưởng thọ 79 tuổi,
59 năm tu hành.
3. Hòa
thượng Thích Thanh Hướng (1931 –
2001)
Hòa thượng Thích Thanh Hướng (thế danh Đồng Văn Hướng)
nguyên trụ trì chùa Tiên Hương, xã Kim Thái, Vụ Bản Nam Định; Hòa thượng là chú
ruột và là Thầy Nghiệp sư của Hòa thượng Thích Gia Quang.
Hòa thượng sinh năm 1931 (Tân Mùi), Ngài đi tu từ nhỏ,
đến năm 30 tuổi trụ trì chùa Tiên Hương, rồi làm trưởng miền Phật giáo huyện Vụ
Bản cho tới khi ngài viên tịch năm 2001, thọ 71 tuổi.
4.Hòa
thượng Thích Gia Quang
Hòa thượng Thích Gia Quang (thế danh Đồng Văn Thu) sinh ngày 20
tháng 01 năm 1954, quê ở Yên Hồng , Ý Yên, Nam Định.
Hòa
thượng là thạc sĩ triết học, hiện nay đang làm nghiên cứu sinh về lịch sử Phật
giáo Việt Nam
tại các tỉnh miền núi phía Bắc.
Từ năm 1974 – 1976, tu học tại Chùa Tiên Hương, Kim Thái – Vụ
Bản – Nam
Định;
Năm 1977 – 1982 là thiền sinh Học tại trường Cao cấp Phật học
Việt Nam; năm 1982 – 1990, Hòa thượng đảm nhiệm phật sự là chuyên viên Văn
phòng I T.Ư Giáo hội Phật giáo Việt Nam; năm 1990 – 1997: Phó Văn phòng Phân
viện Nghiên cứu Phật học, Biên tập viên Tạp chí Nghiên cứu Phật học; năm 1997 –
2002: Chánh Văn phòng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội, Phó
Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học; năm 2002 – 2012: Ủy viên Thư ký Hội
đồng Trị sự, Phó trưởng Ban Phật giáo Quốc tế Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó
Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội; Phó Tổng thư ký,
Chánh Văn phòng Trung Ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Từ năm 2012 – đến nay, Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ
tịch Hội đồng Trị sự T.Ư Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng Ban Thông tin
Truyền thông Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật
học Việt Nam kiêm Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà
Nội, Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Trưởng Ban trị sự Giáo hội Phật
giáo Việt Nam các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang…
Hòa thượng Thích Gia Quang đã tham gia và chủ trì nhiều Hội thảo về Phật giáo ở trong nước và quốc
tế, tham gia và viết các tham luận nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam các thời
kỳ.
5. Thượng tọa Thích Chân
Thường (thế danh là Đồng Xuân Tuấn), quê ở Xuân Phong, Chu Điện, Lục Nam,
Bắc Giang. Hiện Trụ trì tại Chùa Linh Xuân.(Tú Đôi,Kiến Thụy, Hải Phòng); Đại đức Thích
Thanh Hiền (thế
danh là Đồng Văn Tiến), quê ở Quyết Thắng, Thanh Hà, Hải Dương, vv…vv….
GƯƠNG
SOI TRUYỀN ĐỜI
Giáo
hội Phật giáo Trúc Lâm đã thống nhất các hệ phái Phật giáo, mang bản sắc và đặc
tính dân tộc, dựa trên tinh thần nhập thế hành động, và thể nghiệm tu chứng
ngay giữa lòng đời.
Nhắc
đến thời kỳ cực thịnh của Phật giáo đời Trần nói chung, và một tổ chức có kỷ
cương quy mô của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng, thiết tưởng công lao của
Thiền sư Pháp Loa luôn tỏa rạng.
Hiện
diện 47 năm trên cõi trần gian, ròng rã suốt 26 năm tận tụy quên mình phụng sự
đạo pháp, việc tự lợi và lợi tha đều hoàn toàn viên mãn.
Cho
dù tất cả các pháp hữu vi chung cục đều tan biến theo cát bụi của thời gian,
nhưng tấm gương sáng mà Thiền sư đã để lại vẫn là một bài học quý giá, sinh động,
khiến cho con cháu nghìn sau mãi mãi xem như một thứ gia tài bất diệt.
Ngược dòng thời
gian trong phả tộc nhiều trăm năm của họ Đồng trên xứ sở thân yêu, còn có rất
nhiều người tu hành có thế danh và dòng máu họ Đồng; thời hiện tại cũng còn
nhiều con em họ Đồng xuất gia ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, nhưng do chưa
có thời gian tìm hiểu, thống kê một cách cụ thể để nối truyền tộc phả, đó cũng
quả là một thiếu sót cần được bổ túc.
Hy vọng rằng,
cùng với thời gian và sự nỗ lực của con cháu dòng họ, những thông tin thống kê
sẽ ngày càng đủ đầy hơn, rạng rõ hơn.
Tôi tin tưởng
rằng với truyền thống tốt đẹp của Tổ tiên, truyền thống tu học của bậc cao tăng
đắc pháp như Thiền sư Pháp Loa - Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho
tăng, ni, phật tử và hậu duệ họ Đồng tự hào về truyền thống tổ tiên mình.
Truyền
thống ngàn đời tự hào họ Đồng đất Việt
Bảng
vàng vạn thuở kiêu hãnh dòng Tộc trâm anh
Hòa thượng Thích Gia Quang (Đồng Văn Thu)
Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam