1. Văn bia phản ánh hệ thống di tích thuộc Phật phái Trúc Lâm

Trước hết là cụm văn bia ở các di tích thuộc huyện Đông Triều, tiêu biểu là văn bia chùa Quỳnh Lâm An Nam cổ tích danh lam Đệ nhất Quỳnh Lâm bi kí. Đây chính tấm bia đá đang mang dấu ấn các thời kỳ xây dựng, trùng tu chùa Quỳnh Lâm. Khởi thủy đây là bia được tạo tác vào thời Lý, với kích cỡ quy mô khá lớn, cùng họa tiết rồng uốn lượn mềm mại trên trán bia và các rồng ổ được chạm trên diềm bia. Đến thời Trần, chùa được trùng tu và bia cũng được khắc thêm nội dung, trong đó có đoạn ghi lại rằng: “Năm Khai Thái năm thứ 3 (1326) tháng 2 năm Bính Dần, Bảo Từ hoàng thái hậu cúng 50 mẫu ruộng ở trang Đa Mạn làm của tam bảo chùa Quỳnh Lâm, con gái của vương cúng 30 mẫu ruộng ở quê mình thuộc phủ Thanh Hoa làm ruộng tam bảo chùa Quỳnh Lâm. Ngọc Hoa công chúa Trần Thị Ngọc Đảm lại trùng tu chùa Quỳnh Lâm, cúng hai mẫu ruộng ở rìa núi bên trái và bên phải làm tam bảo chùa Quỳnh Lâm”. Đến thời Lê trung hưng đầu thế kỷ XVII, bia mờ nên bị đục đi khắc lại.

Chùa núi Thiên Liêu, nay gọi là đền Đức Sơn, xã Yên Đức có một văn bia thời Trần “Thiên Liêu sơn”. Nội dung văn bia cho biết, có vị được ban quốc tính là Trần Khắc Kỉ và Bảo Quỳnh công Trần công cúng trang Ma Liêu làm của tam bảo, giao cho nghĩa đệ (người em kết nghĩa) là nhà sư Hương Lâm chủ trì trông nom. Phó sứ Thẩm Hình viện, Nghệ An Giám sát sứ họ Trần đi nhậm chức ở phủ lộ Nghệ An, đã lưu lại cho người con trai cả là Trần Nguyên Huy làm giám thủ, trông coi tam bảo phụng thờ hương hỏa. Các dòng chữ bên trái cho biết, hân hạnh được vua Trần đến cho đổi tên Thiên Liêu sơn tự làm Sùng Nhân điện, đặc ban cho thái trưởng lão Hương Lâm trông nom… Dòng lạc khoản được ghi là “Thiệu Phong bát niên Mậu Tý nhị nguyệt sơ tứ nhật Trần Quốc Cương thư”. Chữ nguyệt ở đây được khắc theo lối kiêng húy thời Trần: bớt 1 nét ở giữa. Niên đại này là tuyệt đối, “ngày mồng 4 tháng 2 năm Mậu Tý niên hiệu Thiệu Phong thứ 8 (1348), đời Trần Dụ Tông, Trần Quốc Cương ghi.

Văn bia chùa Non Động, thị trấn Mạo Khê dựng năm Khai Hựu thứ 3 (1331) cũng là văn bia khá sớm ở chùa và khu vực. Trán bia bên phải bị vỡ nửa trên, nên chỉ còn hình chim phượng chầu ở nửa bên trái trán bia. Diềm bia trang trí hoa cúc dây, diềm chân khắc hoa văn sóng nước, thường gặp trên trang trí bia thời Trần. Văn bia do Ngự sử Trung thuận đại phu lộ Lị Nhân họ Phạm soạn.

Văn bia chùa Bác Mã khắc lại lệnh chỉ của chúa Trịnh cho dân xã Bác Mã, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn miễn phu phen tạp dịch để trông nom phụng thờ chùa. Chùa vốn do Trần triều Nhân Tông Hoàng đế sáng lập.

Chùa Phúc Trí có văn bia “Trùng tu Phúc Trí bi kí”, dựng năm Hoằng Định thứ 7 (1607), có rồng yên ngựa, dây leo khắc chìm. Văn bia ghi Thái vương tần Lê Thị Ngọc Nương, hiệu Huệ Minh, người huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên mua đất cúng vào chùa, cùng các tín thí khác, như Đô đốc Ngạn Quận công Nguyễn Đình An tự Huệ Nhân, Quận phu nhân Nguyễn Thị Ngọc Phác.

Chùa Hoa Yên và đền Di Ái, xã Đức Chính được nhiều lần trùng tu, đặc biệt đền Di Ái có sắc chỉ của vua Quang Trung và Cảnh Thịnh thời Tây Sơn sắc cho tu sửa và phụng thờ, cùng các xã lân cận xin rước duệ hiệu ở đền về thờ, như xã Kim Liên, Tuấn Mậu, An Lâm, Đông Mai, Trạc Hà, Đông xá, Nguyễn Xá, Diên Linh, Bác Mã, Đông Sơn…, cả thảy 18 xã.

* Cụm văn bia chùa Thanh Mai, huyện Chí Linh có 4 tấm bia, trong đó, đặc biệt là bia “Thanh Mai Viên Thông tháp bi”, khắc năm Đại Trị thứ 5 (1362), ghi chép được khá nhiều ngôi chùa danh tiếng của Thiền phái Trúc Lâm được xây dựng, trùng tu.

Cụ thể như, đến năm 1329 đã có hai khu chùa lớn là Báo Ân và Quỳnh Lâm, năm ngọn tháp và 200 tăng đường được xây dựng. Năm 1314, riêng chùa Báo Ân, Pháp Loa đã cho xây 33 cơ sở, gồm điện Phật, gác chứa kinh và tăng đường. Sư còn xây dựng các am, như Hồ Thiên, Chân Lạc, An Mã…, mở rộng chùa Thanh Mai và Côn Sơn. Các đệ tử của Pháp Loa cũng cho xây dựng nhiều tháp, chùa ở khắp nơi. Trong năm này, “Sư tạo hơn 1300 tượng Phật lớn nhỏ, hơn 100 tượng bằng đất, dựng hai ngôi chùa lớn và 5 tòa tháp, lập hơn 200 tăng xá, độ hơn 15.000 tăng ni, in bộ kinh Đại tạng” (Thanh Mai Viên Thông tháp bi).

Năm 1328, thiền sư (Pháp Loa) lại cho đúc một pho tượng Di Lặc và tâu xin nhà vua cho được rước tượng từ nền điện lên bảo tọa để dát vàng. Văn bia “Thanh Mai Viên Thông tháp bi” viết: “Niên hiệu Khai Thái năm thứ nhất (1324), ngày 12 tháng 11 năm Giáp Tý, Bảo Từ hoàng thái hậu xin với Phổ tuệ Minh Giác tôn giả, tổ thứ hai dòng Trúc Lâm cho dựng tượng Di Lặc cao 6 thước. Tư đồ Văn Huệ vương và Thượng Trân thái trưởng công chúa xin cúng chín nghìn lạng hoàng kim để đúc pho tượng ấy. Con trai trưởng của công chúa Nhật Trân là Thuận Ứng cúng 50 mẫu ruộng ở trang Hoa Lưu để làm của Tam bảo chùa Quỳnh Lâm. Tư đồ Văn Huệ Vương thiền sư, Thượng Trân thái trưởng công chúa cúng 300 mẫu ruộng ở Cự Linh, Gia Lâm; lại cúng ruộng ở trang Vân Động, tất cả cộng là 1 nghìn mẫu và 1 nghìn nam nữ gia nô vào chùa Quỳnh Lâm. Vào năm Mậu Thìn niên hiệu Khai Thái thứ 5 (1328) tháng 3, Bảo Từ hoàng thái hậu, Bảo Huệ quốc mẫu mời sư đến chùa Quỳnh Lâm tập hợp sư sãi mười phương diễn giảng Đại Thừa chân kinh, lại lập đàn chay 10 ngày cầu cho Trần Anh Tông hoàng đế Bồ Tát. Minh Tông hoàng đế Bồ Tát phê chuẩn lời tâu của sư chùa cho cấm quân đến rước tượng Phật Di Lặc đặt lên điện và thếp vàng”.

Văn bia “Thanh Mai Viên Thông tháp bi” còn cho biết, chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) là chốn tổ của giáo hội Trúc Lâm, nơi san khắc các bộ kinh Phật.

Cùng với cụm văn bia chùa Thanh Mai là cụm văn bia Côn Sơn – Kiếp Bạc, huyện Chí Linh là nguồn sử liệu quý về thiền phái Trúc Lâm. Từ thời Trần, tại chùa Thiên Tư Phúc – Côn Sơn đã diễn ra các cuộc đại hội chúng tăng, nghe các quốc sư giảng kinh thuyết pháp. Văn bia “Thanh Hư động” ghi rằng: “Xưa, thời Hoàng đế Minh Tông triều Trần, nước Nam Việt, học đạo tu thân thành quả Phật kế truyền tông phái tổ sư thứ ba là Huyền Quang nối đời tu trì tại danh lam Côn Sơn Tư Phúc”.

Năm 1316, Pháp Loa Thiền sư đã tôn tạo mở rộng chùa Côn Sơn, xây dựng nơi đây thành tăng viện đào tạo tăng ni, giảng kinh thuyết pháp. Sau đó, từ năm 1329, Huyền Quang về trụ trì ở Côn Sơn, xây nhiều công trình, trong đó có Am Bạch Vân trên núi Côn Sơn. Văn bia “Côn Sơn Tư Phúc tự” ghi: “Chùa Thiên Tư Phúc Côn Sơn, xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn là nơi danh lam cổ tích, nơi trụ trì của sư tổ thứ 3 đời nhà Trần, sư nối pháp Huyền Quang Ma ha tôn giả, chùa xưa được Trần Minh Tông cấp một vạn tờ điệp khống chỉ, người cúng tiền vàng kể đến hàng nghìn, lưu truyền đến muôn đời”.

* Cụm văn bia chùa Khám huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Ninh (nay là Bắc Giang) có 2 bia. Một bia khắc năm Thuận Thiên thứ 5 (1432) ghi việc tạo một bệ đá hoa sen; một bia khắc năm Hồng Đức thứ 25 (1494) ghi việc tạo bệ tượng và ba pho tượng. Văn bản khắc trên bệ đá chùa Khám ghi: 順天五年壬子年, 龕社下品刘俱, 妻杜醜 (Thuận Thiên ngũ niên Nhâm Tý niên, Khám xã Hạ phẩm Lưu Câu, thê Đỗ Xú). Nghĩa là: Năm Nhâm Tí niên hiệu Thuận Thiên thứ 5 (1432). Lưu Câu chức Hạ phẩm người xã Khám và vợ là Đỗ Xú (công đức).

Bệ Phật được tạo dựng vào đầu thời Lê sơ, năm Thuận Thiên thứ 5 (1432) ở chùa Khám Lạng có kiểu dáng như các bệ đá hoa sen thời Trần. Điều đó cho thấy, nơi đây vốn nằm trong hệ thống Phật phái Trúc Lâm thời Trần, được duy trì và tái tạo nối tiếp sau đó vào thời Lê sơ. Còn bệ tượng khắc năm Hồng Đức thứ 25 (1494) là bệ Phật, gồm ba bệ. Nội dung văn bản ghi việc công đức tạo tượng và công đức cúng áo Phật, cả thảy 4 chiếc. Đây là dấu tích Phật giáo Trúc Lâm ở phía Tây Yên Tử.

2. Văn bia với sự nghiệp các sư tổ Phật giáo Trúc Lâm

Cụm văn bia chùa Thanh Mai, Côn Sơn Kiếp Bạc, trong đó tiêu biểu là văn bia “Thanh Mai Viên Thông tháp bi”, khắc năm Đại Trị thứ 5 (1362) là nguồn sử liệu quý về các vị sư tổ thiền phái Trúc Lâm.

Cụ thể như, về Trần Nhân Tông, tài liệu văn bia cho biết, sau khi tìm được người kế thừa đạo pháp, Trần Nhân Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) làm lễ kiết hạ. Sau khi giảng hết khoá hạ, Điều Ngự Trần Nhân Tông vào núi Yên Tử đến nằm ở Am Ngoạ Vân và hóa tại đây. Khi Trần Nhân Tông hóa, Pháp Loa làm lễ hoả táng, xây tháp mộ ở núi Yên Tử, dâng tôn hiệu cho ngài là “Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật” gọi là Trúc Lâm đệ nhất Tổ và nối tiếp lên làm vị tổ thứ hai Thiền phái Trúc Lâm. Pháp Loa được Trần Nhân Tông truyền cho đạo pháp đã đi khắp nơi thuyết pháp, giảng bộ sách “Thiền Uyển Truyền Đăng lục”.

Bài vị sư tổ đệ nhất được khắc trên văn bia là: “Nam Mô A Di Đà Phật Trần triều Yên Tử Trúc Lâm đệ nhất Thánh tổ Hoa Yên viện Huệ Quán Kim tháp Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Đại thánh tổ thiền tọa hạ”.

Về Tổ đệ nhị Pháp Loa, văn bia cho biết, Thiền sư tên là Đồng Kiên Cương, quê ở thôn Đồng Hòa, hương Cửu La, giang Nam Sách. Năm 1304, sư xuất gia theo Điều Ngự, được đặt tên là Thiện Lai. Ban đầu được gửi đến học với Hòa thượng Tinh Giác ở Quỳnh Quán, sau đó, thường đi theo Điều Ngự dự các buổi giảng. Năm 1305, ông được Điều Ngự cho thụ giới Thanh văn và Bồ Tát, đặt pháp danh là Pháp Loa. Năm 1306 được cử làm giảng chủ ở chùa Báo Ân, huyện Siêu Loại. Năm 1307, ông và một số đệ tử khác được Điều Ngự giảng cho nghe bộ Đại Tuệ Ngữ lục. Trong năm đó, trên đỉnh Ngọa Vân, ông được Điều Ngự giao cho y bát và tâm kệ. Đến ngày mồng một tháng Giêng năm Mậu Thân (1308) ông được chính thức trao pháp y, giữ cương vị tổ thứ hai của phái Trúc Lâm.

Về Tổ thứ ba Huyền Quang, văn bia cho biết, sư quê ở làng Vạn Tải, thuộc lộ Bắc Giang hạ, từng thi đỗ làm quan. Văn bia “Đại Bi tự bi” ở làng Vạn Tải ghi: “Tổ họ Lý, tên chữ là Đạo Tái. Ngài xuất gia theo học thiền sư Bão Phác ở chùa Lễ Vĩnh, sau đó, Ngài đi theo Nhân Tông trong vài năm, giúp Nhân Tông soạn sách, như Chư Phẩm kinh, Công Văn tập, Thích khoa giáo. Sau khi vua Nhân Tông mất, Ngài đi theo Pháp Loa, rồi về trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử.

Sau một thời gian, Ngài lại đến tu ở chùa Thanh Mai, rồi chùa Côn Sơn. Lúc Pháp Loa ốm ở viện An Lạc, Ngài đứng ra chăm sóc. Sau khi lập thiền viện Quỳnh Lâm vào năm 1316, Pháp Loa cho mở rộng quy mô chùa Côn Sơn, xây dựng nơi đây thành tăng viện đào tạo tăng ni, giảng kinh thuyết pháp. Ngày 22 tháng Giêng năm 1334, sư tổ Huyền Quang viên tịch. Thương tiếc vị quốc sư mẫu mực, Thái thượng hoàng Trần Minh Tông đã về Côn Sơn ban tước hiệu và tiền vàng để xây Đăng Minh Bảo tháp.

Cuộc đời của ba vị Tổ Phật giáo Trúc Lâm được nhiều tài liệu đề cập đến, song tư liệu văn bia luôn là nguồn tư liệu xác thực, tin cậy và phong phú nhất.

3. Phạm vị hoạt động của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần

Phật giáo Trúc Lâm thời Trần hoạt động tập trung trước hết là ở khu vực núi Yên Tử, vùng Đông bắc nước ta thời Trần. Tuy nhiên, hoạt động Phật giáo này được mở rộng ra các vùng miền khác của đất nước. Trước hết là khu vực kinh thành và phụ cận. Nơi đây, vốn cũng từng có nhiều bia chùa thời Trần được dựng để lại dấu tích về Phật giáo đương thời. Đặc biệt ở đây có khá nhiều chùa được làm bệ thờ bằng đá, thường được gọi là bệ đá hoa sen. Đó là đá chùa Đại Bi ở thôn Quế Dương, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, có minh văn khắc năm Long Khánh thứ 2 (1374). Minh văn có tiêu đề là “Quế Dương thôn Đại Bi tự Phật bàn” và nội dung văn bản. Nguyên văn đoạn văn bản đó như sau: “桂陽村大悲寺佛槃.

隆慶二年甲寅二,造佛槃一籌。施主三人各出五貫,戶舍阮杵,室人阮氏伴,文公故阮清。(Quế Dương thôn Đại Bi tự Phật bàn. Long Khánh nhị niên Giáp Dần nhị nguyệt tạo Phật bàn nhất trù. Thí chủ tam nhân các xuất ngũ quán, Hộ xá Nguyễn Xử thất nhân Nguyễn Thị Bạn, Văn công cố Nguyễn Thanh.

Nghĩa là: Bàn thờ Phật chùa Đại Bi thôn Quế Dương. Vào ngày tháng 2 năm Giáp Dần niên hiệu Long Khánh thứ 2 (1374), tạo một bàn thờ Phật. Thí chủ 3 người, mỗi người cúng 5 quan, Hộ xá Nguyễn Xử, phu nhân Nguyễn Thị Bạn, Văn công cố Nguyễn Thanh)[2].

Hai là bệ thờ Phật chùa Đại Bi ở lộ Quốc Oai Trung thời Trần, nay là chùa Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội, cũng có minh văn khắc năm Xương Phù thứ 6 (1382). Minh văn có đầu đề là Bối Khê thôn Đại Bi tự Phật bàn , với nội dung cụ thể như sau: “Bàn Phật chùa Đại Bi, thôn Bối Khê. Ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Tuất niên hiệu Xương Phù thứ 6 (1382). Thạch chủ phụng thờ bàn thờ Phật ở làng Trung, xã Đống, lộ Quốc Oai là Điện thị đô lệnh dũng thủ Nguyễn Hội cùng vợ Nguyễn Thị [] cúng tiền 20 quan, để làm của Tam bảo lưu truyền mãi mãi.

Ngày 15 tháng 2 năm Nhâm Tuất niên hiệu Xương Phù thứ 6 (1382). Thạch chủ phụng thờ bàn thờ Phật ở làng Trung, xã Đống, lộ Quốc Oai là Huyền Chân đạo sĩ Nguyễn Dị, cùng vợ Nguyễn Thị Ương cúng tiền 10 quan, và một thửa đất tại Rộc Trì, phía đông dài 7 sào, giáp Tam bảo, phía tây dài 7 sào, giáp […], phía nam rộng 1 sào rưỡi, giáp Đỗ Thị Dao, phía bắc rộng 2 sào, giáp Khố nhi Dương […] làm vật lưu thông Tam bảo…”.

Rõ ràng là, tên gọi bệ đá hoa sen thời Trần được gọi là Bàn thờ Phật. Bàn thờ Phật là ban thờ ở chính điện, phía trên đặt tượng thờ. Về sau, do số lượng tượng Phật ngày một nhiều, nên bàn thờ không đủ bài trí hết tượng thờ, nên làm thêm các bệ thờ ở phía sau bàn thờ Phật này.

Khu vực Ninh Bình, mà trung tâm là núi Non Nước và phụ cận, nhiều hạng mục công trình được xây dựng và được văn bia ghi lại. Cả thảy nơi đây hiện có 6 bia thời Trần.

Khác với thời Lý, nhà Trần đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa lớn ở Ninh Bình mà hiện vẫn còn tồn tại như: Chùa A Nậu, nay thuộc xã Ninh Khang huyện Hoa Lư. Trên bia A Nậu tự tam bảo điền bi  cho biết đây vốn có ngôi đại danh lam cổ tích (là) chùa A Nậu do Hoàng đế Thái Tông triều Trần xây dựng[3]. Sự sùng bái Phật giáo thời Trần không chỉ thể hiện ở việc xây dựng chùa chiền mà còn biểu hiện ở việc họ đã đích thân xuất gia tu hành, tiểu biểu là vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Vua Trần Thái Tông mới 40 tuổi đã nhường ngôi lại cho con Trần Thánh Tông đến tu hành tại cung Thái Vi, xã Ô Lâm, nay thuộc huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Ông đã xây dựng và trùng tu khá nhiều chùa ở địa phận xung quanh đó bia Trùng tu Linh Hương miếu bi kí/ cho biết việc Trần Tiên đế xuất gia ở cung Thái Vi, cho xây dựng chùa Thiền Lâm[4], đó là chùa Thiền Lâm nay thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư.

Vua Trần Nhân Tông thành lập Thiền phái Trúc Lâm. Sau Thiền phái này rất phát triển, các phép tu tập rất linh hoạt, mà công dụng lại lớn lao, có ảnh hưởng sau rộng đến dân chúng. Trong bia Dục Thúy Sơn Linh Tế tháp kí Trương Hán Siêu đã ca ngợi sư Trí Nhu là người hiểu sâu phép Trúc Lâm, tu thân khổ hạnh, tinh thông được tam tu, giơ hai bàn tay không mà làm nên việc lớn[5], Trí Nhu là một trong mấy chục đệ tử đắc pháp của Pháp Loa, thuộc phái thiền Trúc Lâm ông có vai trò rất lớn đến sự phát triển Phật giáo ở Trường Yên.

Không những bậc vua chúa mà các Hoàng hậu cũng đi tu làm ni cô, vương công làm tăng chúng, hay các Công chúa xuống tóc làm sư trụ trì với tấm lòng thành kính đức Phật. Bia Tiên chúa bi kí cho biết ngôi chùa này vào niên hiệu Hưng Long (1293-1314) nhà Trần sắc ban ruộng thờ cho chùa A Nậu. Công chúa sinh ngày 1 tháng 3, từ khi tuổi nhỏ đã bước ra khỏi chốn vàng son vào nơi chùa báu, con gái vua theo Phật, mãi mãi trụ trì chùa (này)[6].

Lực lượng của Phật giáo ở thời kì này rất hùng hậu, việc bảo vệ chùa chiền cũng được các thế lực vua quan đứng ra bảo hộ. Trong văn bia thời Trần ở Ninh Bình vấn đề này được phản ánh tương đối rõ nét, đó là một đạo Thánh chỉ cho việc sở hữu các loại ruộng đất, cây cối hoa quả của nhà chùa. Từ đó cho thấy địa vị đặc biệt của ngôi chùa nói riêng và Phật giáo nói chung đối với triều đình đương thời.

Việc xây mới các ngôi chùa ở thời kì này là do các sư tăng, hoặc quan lại, số ít do do tập thể cá nhân tham gia. Chùa Vĩnh Báo được Văn Huệ Tư đồ xây dựng vào niên hiệu Quang Thái 5 (1392), trong đó văn bia ghi rõ Hương An Liêu là (quê cũ) của ông, mà chùa Vĩnh Báo là ngôi chùa do ông xây dựng[7]. Viện Báo Ân được nhắc tới trong bia Trường Yên phủ Yên Đăng hương Lưu quân Thúy Sơn Báo Ân viện minh do Hồ Tông Thốc soạn vào niên hiệu Xương Phù 7 (1383) ghi việc ông họ Lưu đã đem sản nghiệp của tiền nhân để lại cùng tài sản của mình lập ngôi tự viện[8]. Qua nội dung văn bia phản ánh việc các nhà sư là người đã đứng ra chủ trì trùng tu lại những ngôi chùa, tháp cũ thời Lý đã bị đổ nát, tiêu biểu là nhà sư Trí Nhu, lần đầu tiên ông cho tu sửa tháp báu bắt đầu từ năm Đinh Sửu niên hiệu Khai Hựu (1337), trải qua 6 năm tròn, nay đã hoàn thành, xin ông viết bài kí[9]. Lần thứ hai cùng kết hợp vói tầng lớp quý tộc ông đã cho trùng tu tháp Hiển Diệu lại dựng chùa Kim Cương việc khôi phục lại chùa tháp  là cái phúc của tổ phụ ta, thế rồi người cúng người mua. Khi ấy các vương hầu, Công chúa và các quan viên đều công đức vào chùa, Lão tôn túc muốn khai phá thêm, liền đào những thửa ruộng lớn, mở rộng vườn chùa, tu sửa điện đường hành lang, mọi thứ đều mới mẻ hoàn bị, biển đề chùa Kim Cương[10].

Về nhân vật Trí Nhu, chúng ta đã biết Trí Nhu là đệ tử của Đệ nhị tổ Pháp Loa Thiền phái Trúc Lâm, ông được giao cho Trụ trì ở Trường An. Cuộc đời của ông được tư liệu văn bia ở đây phản ánh khá rõ. Đó là văn bia Tiên Long sơn, Kim Cương tự, Hiển Diệu tháp bi văn tịnh tự và Dục Thúy Sơn linh tế tháp. Cụ thể, văn bia Hiển Diệu tháp bi văn tịnh tự viết như sau: “Lão tôn túc  họ Phạm, người phủ Trường An, châu Hoàng, tên nhà Phật là Trí Nhu. Khi chưa đến 20 tuổi, không thích ở nhà, liền vào nơi rừng núi, xin làm đệ tử cho Đệ nhị tổ Phổ Huệ, bộc bạch tấm lòng, lánh xa việc trần, chìm trong đạo Phật, muốn phát tâm thực hiện tự giác ngộ, học đạo Phật, kính cẩn với người trên, học theo phép thiền, không ăn uống no say, tính không lười biếng. Tôn giả thấy là đó người đức hạnh, liền lấy pháp khí giao cho, rặn hãy đến Quỳnh Lâm Ngũ Mai đường, trông nom cung Phật, gìn giữ xá lị Thích Ca”.

Ngoài các ngôi chùa Phật được xây dựng, tu bổ ra, tháp chùa cũng được chú trọng xây dựng, tôn tạo. Quy mô tháp khá lớn, như tháp trên núi Dục Thúy, được xây bốn tầng, “đêm tỏa hào quang, kẻ xa người gần đều trông thấy rõ” (Bia núi Dục Thúy). Sát với Ninh Bình là Thiên Trường, đất căn bản nhà Trần có tháp Phổ Minh nổi tiếng. Đây chính là ngôi tháp chứa xá lị của vua Trần Nhân Tông, đệ nhất tổ Trúc Lâm, với hiện thân là một đóa sen vàng rực rỡ. Cây tháp chính là biểu tượng cho sự đồng nhất Vua – Phật, Phật – Vua và tên gọi Phổ Minh nghĩa là “đem ánh sáng Phật, ánh sáng minh triết để giúp mọi sinh linh giác ngộ” cũng phản ánh tư tưởng chủ đạo của Phật phái Trúc Lâm. Cùng với tháp Phật là tháp mộ của sư tăng. Đó là các tháp mộ của các vị Sư tổ Phật giáo Trúc Lâm được dựng ở trung tâm Phật giáo Trúc lâm Yên Tử. Tại chùa Am Vãi xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang có tháp mộ Bồ tát vốn là Công chúa thời Trần xuất giá tu hành ở đây. Tháp và bia mộ còn được bảo lưu khá nguyên vẹn.

Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo Trúc Lâm là sự kết hợp giữa đạo với đời, như Trần Thái Tông nói “Đạo Phật không chia nam, bắc, đều có thể tu cầu; tính người có hiền ngu, đều cùng được giác ngộ. Vì vậy, giáo lý của đức Phật là phương tiện để mở lòng mê muội, là con đường soi rõ lẽ tử sinh…” Thêm nữa, thiền phái Trúc Lâm nhấn mạnh rằng “Phật ở trong lòng, lòng lặng lẽ và sáng suốt, đó chính là chân Phật”, nghĩa là “giác ngộ được chân tâm” có thể thành Phật. Với tư tưởng đó, thì khi ấy dù là vua quan, đại thần, thừa tướng hay quốc sư, cư sĩ hay thường dân đều có thể thành Phật. Vua cởi áo bào, cạo đầu trở thành vị sư danh tiếng. Thực trạng này cũng đã được văn bia phản ánh khá rõ qua các thời kỳ lịch sử và trong cả xã hội ngày nay.

Văn bia là một những sử liệu xác thực, qua đó đã góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu về lịch sử và các nhân vật thuộc Thiền phái Trúc Lâm thời Trần.  Thực tế, tư liệu văn bia cụm di tích Phật phái Trúc Lâm vô cùng phong phú, là minh chứng có tính xác thực đối với các di tích thiền phái Trúc Lâm, cũng như các hoạt động và thực hành Phật pháp của các sư tổ Trúc Lâm và đệ tử mà bài viết này mới điểm ra đôi điều.



PGS.TS. Đinh Khắc Thuân

Viện Nghiên cứu Hán Nôm


Tài liệu tham khảo

1-       Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh, 1995.

2-       Thích Thanh Từ, Trúc Lâm Tam Tổ giảng giải, 1997.

3-       Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 2, Nxb. Tp. HCM, 2001.

4-       Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000.

5-       Đinh Khắc Thuân, “Văn bia Phật giáo thời Lê sơ”, Tạp chí Hán Nôm, số 3 năm 2015.

6-       Bản dịch văn bia Lý Trạng nguyên hành trạng, khắc năm Tự Đức thứ 18 (1865).

7-       Bản dịch văn bia Thanh Mai Viên Thông tháp bi, khắc năm Đại Trị thứ 5 (1362).

8-       Bản dịch văn bia Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự bi, dựng năm Hoằng Định 15 (1615).

9-       Đinh Khắc Thuân – Thích Đức Thiện, Văn bia thời Trần, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2016.

[2]     Đinh Khắc Thuân – Thích Đức Thiện, Văn bia thời Trần, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2016, tr.25.

[3]     Nguyên văn chữ Hán trong bia:

[4]    

[5]     法髓

[6]     []  [] 初一

[7]     [ ] //

[8]    

[9]    

[10] 宿 殿