Họ Đồng ở Việt Nam là một dòng họ có số người chiếm tỉ lệ nhỏ, theo ước tính chỉ chiếm khoảng 0,8 % trong tổng số dân 100 triệu người Việt Nam hiện nay. Người họ Đồng sống phân tán, rải rác trong nhiều tỉnh, thành trên cả nước
Khái
quát chung
Vì vậy một cá nhân hay một
nhóm người dẫu dành trọn cuộc đời tâm huyết cũng không thể có khả năng, nguồn lực
làm nổi, bo bởi sự biến đổi xã hội con người thích nghi với sự thay đổi của cuộc
sống đã xuất hiện nhiều định chế sống mới cho phù hợp. Trường hợp đổi họ gốc để
mang họ mới là họ ghép xảy ra rất phổ biến. Theo thông lệ thời đó thì sau khi
ra sống độc lập, con cháu người đó không nhất thiết phải giữ mãi họ ghép mà có
thể đổi lại họ gốc của mình, do vậy mà hình Trong một thời gian đầu họ là dân ngụ cư có nhiều dòng họ cùng tương tác. Trong cộng đồng ấy có một số người đã thay đổi họ gốc. Sau khi khảo cứu một số gia phả của các chi nhánh dòng họ Đồng Việt Nam hiện đang sinh sống tại một số tỉnh, thành trên toàn, tác giả nhận thấy: Có các chứng cứ xác định người họ Đồng đã định cư ở đó từ thời nhà Trần (1226-1400), đó là vùng Tư Nông thuộc đất Thái Nguyên và Nam Sách thuộc đất Hải Dương ngày nay. Tác giả nhận thấy có 2
nơi có chứng cứ người họ Đồng đã đến cư trú ở đó từ thời Trần đó là Thái Nguyên (khoảng năm 1257)
và Nam Sách (khoảng năm 1266). Khoảng thời gian này tương đối trùng khớp với thời
gian mà nhà Trần cho phép và khuyến khích con cháu hoàng tộc cũng như dân chúng
được di cư khai phá các vùng đất hoang hóa để biến thành các điền trang, thái ấp
vào năm Bính Dần (1266). Ngoài ra, các nhánh dòng họ Đồng sinh sống ở nơi khác
chỉ có chứng cứ cư trú từ thời nhà Lê Nếu xét đến khoảng thời
gian trước nữa thì chắc hẳn không có tài liệu, gia phả, để khảo cứu vì cho đến
thời Lý thì mới có Hoàng Triều ngọc điệp (nhà Trần có Hoàng Tông Ngọc điệp, nhà
Lê có Hoàng Lê Ngọc phả) là gia phả của hoàng tộc, còn dân chúng nói chung chưa
có viết gia phả. Không có gia phả, nhà thờ để lại không có nghĩa là nơi đó
không có người trong họ đến cư trú, chẳng qua là trong thời gian sống ở vùng đó
không xuất hiện nhân vật nổi tiếng được ghi vào sử sách mà thôi. Cuộc xâm lăng tiêu diệt
văn hóa bản địa thời thuộc Minh (1407- 1427) đã tiêu hủy đi rất nhiều những tài
liệu quý báu, những di sản văn hóa của các dòng họ trên đất nước ta. Đến thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều đình
làng và nhà thờ họ lại một lần nữa bị đốt phá, gây tổn thất rất lớn đến việc
nghiên cứu, thừa kế các di sản văn hóa dòng họ, làng xã về sau. I. Họ Đồng ở Tư Nông, Thái Nguyên 1.Địa
danh Tư Nông 司農đã xuất hiện trong “Đường thư địa lý
chí”, là một trong số 11 huyện thuộc phủ Thái Nguyên thời
nhà Đường (Trung Quốc 618-907) cùng với các địa danh Phú Lương, Vũ Lễ, Đồng Hỷ,
Vĩnh Thông, Tuyên Hóa, Lộng Thạch, Đại Từ, An Định, Cẩm Hóa, Thái Nguyên (theo
sách “Phượng Đình dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu). Địa danh Tư Nông ngày nay
không còn, nhưng theo “Sử học bị khảo” của Đặng Xuân Bảng, đất Tư Nông có núi
Nang sản sắt (chứa nhiều quặng sắt). Điều này có thể suy ra vùng đất này nằm cạnh
Đồng Hỷ và khu gang thép Thái Nguyên ngày nay, khu vực có mỏ sắt Trại Cau ?! Trong phạm vi bài viết
này, tác giả trình bày khái quát cơ bản của một số nhánh chính, phần cụ thể của
từng nhánh họ sẽ tự tìm hiểu ghi vào gia phả tiểu chi (theo các khái niệm được
viết trong Tài liệu hướng dẫn viết gia phả. 2.
Xác định niên đại bình sinh Tổ họ Đồng ở Tư Nông Thái Nguyên.
Tài liệu nghiên cứu từ cuốn
gia phả cổ của họ Đồng thôn Thiết Úng, xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội được cụ
Đồng Nhân Phái lập năm 1628. Đây cuốn gia phả lâu đời
và được coi hoàn chỉnh nhất của họ Đồng Việt Nam được lưu giữ được tại Nhà thờ họ
Đồng thôn Thiết Úng, xã Vân Hà, huyện Đông Anh ngày nay, được viết bằng chữ Hán
từ năm Mậu Thìn 1628, được bổ sung hoàn thành vào năm Mậu Ngọ 1678 đã xác nhận
người họ Đồng từ Thái Nguyên đã về đây làm ăn sinh sống từ thời Lê? (Triều Lê
Sơ 1428-1527- Hậu Lê (Lê Trung Hưng 1533- 1788). Nguyên văn chữ Hán trong
gia phả có đoạn viết: 初有一人賢自太原司農而來不拭鄉号自稱同姓娶俶人為 妻 屋居本社
(Sơ hữu nhất nhân hiền tự Thái Nguyên Tư Nông nhi lai bất thức hương hiệu tự
xưng Đồng tính thú thục nhân vi thê ốc cư bản xã, có nghĩa là ban đầu có một
người hiền lành từ Thái Nguyên Tư Nông nhưng không rõ từ thôn nào trên ấy nói
mình họ Đồng về đây làm ăn sinh sống và lấy vợ tại xã này). Câu đối cổ trong
nhà thờ tổ ở đây cũng viết: 來自司農傳世業 (Lai tự Tư Nông
truyền thế nghiệp), có nghĩa là họ Đồng ở đây có nguồn gốc từ trên đất Tư Nông
về đây lập nghiệp.
Theo truyền ngôn, cụ tổ Đồng
Chính Phái từ trên đất Tư Nông, Thái Nguyên về khởi nghiệp đầu tiên ở đất Thiết
Úng, huyện Đông Ngạn (có bản dịch là Đông Ngàn). Cụ Đồng Chính Phái nói, họ Đồng nhà cụ đã sinh sống hơn 7 đời ở trên
vùng đất Tư Nông, thuộc phủ Thái Nguyên xưa.. Giả thiết, đến khi trưởng thành khoảng 20 tuổi, cụ Đồng Chính Phái mới di cư từ Thái Nguyên về Thiết Úng, thì nhánh họ Đồng
này đã đến cư trú ở đây vào khoảng năm 1467 (lấy số 1447 cộng thêm 20), tức là
vào thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497)
thuộc triều đại Lê Sơ (1428 - 1527). Như vậy, theo cách tính đời tương đối của
cụ Đồng Chính Phái (là kị của cụ Đồng Nhân Phái, giả thiết cụ Đồng Chính Phái
chỉ biết được đến 7 đời trước tương ứng với khoảng 210 năm thì tổ tiên họ Đồng
nhà cụ đã từng cư trú tại đất Tư Nông, Phủ Thái Nguyên xưa chậm nhất cũng vào
khoảng năm 1257 sai số có thể lên tới
hàng chục năm, thuộc đời Trần, triều Trần Thái Tông (1225- 1258). Cụ Đồng Chính Phái là kị nội của cụ
Đồng Nhân Phái (sinh năm Canh Thìn 1580). Cụ Đồng Nhân Quý sinh năm Đinh
Mùi (1547) sinh ra cụ Đồng Nhân
Phái Theo suy đoán tương đối,
cụ Đồng Chính Phái sinh trước đó khoảng 100 năm, tức là vào khoảng năm 1447. Cụ Đồng Nhân Phái lập gia
phả năm 1628 trước khi đi thi đại khoa. Cụ là người có trình độ học vấn cao nhất
trong nhánh họ này.
3.
Họ Đồng Thái Nguyên ngày nay
Hiện nay, họ Đồng ở Thái
Nguyên, sinh sống tập trung ở Phổ Yên, Đại Từ, Phú Bình. Riêng ở xã Bá Xuyên,
TP. Sông Công có số người họ Đồng chiếm đến ba phần tư dân số trên tổng số gần
5000 nhân khẩu toàn xã. Theo ông Đồng Đình Tung
(1930) là vị cao tuổi nhất của nhánh họ Đồng ở Sông Công cho biết: Họ Đồng ở
đây gồm bốn nhánh. Chi nhánh xóm Chùa là đông nhất (trên 400 suất đinh); Chi
nhánh ở làng Mới (cỡ 150 người); Chi nhánh La Kham, Bãi Hát. Chưa có chi nhánh
nào ở đây có nhà thờ tổ và mới có một chi nhánh lập được gia phả 10 đời vào năm
2001. Ngoài ra, ở Thái Nguyên còn có nhánh họ Đồng ở tổng Trung Giã, huyện
Thiên Phúc, phủ Bắc Hà, có gia phả truyền được 18 đời, với cụ tổ là Đồng Phúc Cẩm
và trưởng tộc hiện nay ở đây là Đồng Văn
Đỗng,…và vài nơi khác.
II.Họ
Đồng ở Thiết Úng, Đông Anh
Theo tài liệu ghi trên
các gia phả, văn bia thứ tự nơi cư trú lâu đời tiếp
theo sau họ Đồng ở Tư Nông, Thái Nguyên, sau họ Đồng Nam Sách, Hải Dương
(trình bày ở phần sau) là nhánh họ
Đồng ở Thiết Úng, Đông Anh, Hà Nội. Theo gia phả của nhánh
này và theo cách tính toán đã trình bày ở phần trên (nhằm xác định thời gian xuất
hiện người họ Đồng cư trú tại Thái Nguyên), ta đã xác định được một cách tương
đối về thời gian ông tổ đầu tiên của nhánh này là cụ Đồng Chính Phái di cư từ
Thái Nguyên về sinh sống ở đất Thiết Úng vào khoảng năm 1467
và có đủ gia phả cho đến tận các đời ngày nay (ngoài cuốn gia phả cổ viết
bằng chữ Hán, ở đây còn có cả gia phả viết bằng chữ
quốc ngữ). Nhà thờ họ Đồng
ở Thiết Úng Đông Anh đã được xây dựng gần 360 năm và ở đây còn lưu giữ được
một số cổ vật quý giá, nên đã được UBND thành phố Hà Nội xếp hạng di tích
lịch sử văn hoá cấp thành phố vào năm 2010. Căn cứ theo nội
dung được trình bày theo lối cổ trong gia phả để lập ra sơ đồ
trên, người đời sau dễ dàng nhìn ra ông Đồng Chính Phái sinh được 1
trai + 2 gái, trong đó cả 3 đều không được ghi rõ tên, riêng ông con trai
chỉ được ghi là Đồng quý công tự Thiện Khánh nên trong sơ đồ ghi luôn là Đồng
Thiện Khánh cho dễ phân biệt (vì ông Đồng Chính Phái từ nơi khác đến nên cũng
phải mất hàng chục năm làm lụng xây dựng cơ nghiệp rồi mới cưới được vợ và sinh
con khi đã ngoài 30 tuổi). Ông Đồng Thiện Khánh chỉ
sinh được 1 con trai (độc đinh) là ông Đồng Nhân Giáo. Ông Đồng Nhân Giáo sinh
được 1 gái đầu + 2 trai, trong đó ông con trai thứ 2 phải cho đi làm con
nuôi và trong gia phả không cho biết hậu duệ của nhánh này. Chỉ còn
lại ông Đồng Nhân Quý tuổi Đinh Mùi (sinh năm 1547) ở lại nhà sinh được một
mình ông Đồng Nhân Phái vào năm Canh Thìn (1580), trong cảnh nhà nghèo Con trưởng của ông là Đồng
Văn Viện (sinh năm Kỷ Mùi 1619) phải đi ở trả nghĩa phụng
sự cho bên họ Nguyễn, còn con thứ của ông là Đồng Nhân Dũng (sinh năm Quý Hợi 1623)
thì lại chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên tại nhà, trong khi con trai út của
ông là Đồng Chính Trào (sinh năm Nhâm Thân 1632, có chỗ trong gia phả
lại viết là Đồng Nhân Trào, được phong là Thuần Hậu phủ quân, tạ thế khi mới 38 tuổi) cũng không rõ con cái
hậu duệ đi định cư ở đâu hết, chỉ có con vợ bé họ Lê của ông là Đồng Chính Hải
(sinh năm Qúy Dậu 1633) thì được ghi rõ hậu duệ 3 đời về sau. Riêng ông con
nuôi gốc họ Đỗ đổi sang họ nhà ông là Đồng Nhân Triêm thì chắc là về sau
con cháu nhánh này sẽ lại đổi lại họ cũ (họ Đỗ) chứ không để
họ Đồng nữa, nên trong gia phả cũng không thấy ghi con cháu của nhánh này. Nhánh trưởng của ông là Đồng
Văn Viện sinh được 2 gái (con cháu thuộc họ nhà chồng) + 2 trai nối dõi dòng họ
là Đồng Như Trân (sinh năm Tân Tỵ 1641) và Đồng Như Châu (sinh năm Quý Mùi
1643), nhưng trong gia phả ở Thiết Úng ghi không rõ tung tích con cháu của 2
nhánh này (suy luận ra là 2 nhánh này đã di cư đi hết chỗ khác trước năm hoàn
thành gia phả 1678 khi mà 2 ông này chưa có con và không có người nào
quay trở về quê gốc), chỉcòn nhánh con thứ của ông là Đồng Nhân
Dũng (sinh năm Qúy Hợi 1623, con của ông Đồng Nhân Dũng là Đồng Chính Đà sinh
năm Kỷ Mão 1639, cháu của ông Đồng Nhân Dũng là Đồng Hoàng Giám,…) ở lại
nơi từ đường thờ phụng tổ tiên thì được gia phả ghi lại con cháu hậu duệ rõ
ràng cho đến cháu của ông Đồng Thế Hiển (sinh năm Qúy Dậu 1933, cháu ông cũng sinh
năm Qúy Dậu 1993) là khoảng 28 đời (tính cả 7 đời trên Thái Nguyên theo lời cụ
thủy tổ Đồng Chính Phái ở nhánh này). Nếu tính cụ Đồng Chính Phái
là đời thứ 8 bắt đầu về sống ở đất Thiết Úng, huyện Đông Ngạn, vùng Đông Anh,
Hà Nội ngày nay (xem sơ đồ gia phả ở trang 53), thì đến đời thứ 11 có người
chắt của cụ đi làm con nuôi ở làng Trõ (Chũ), thôn Bình Trai thuộc đất Kinh Bắc
xưa (nay thuộc đất Bắc Giang), do phải đổi tên họ theo họ bố nuôi, nên gia phả
không chép rõ tên tuổi và nơi cư trú tiếp theo, nhưng có thể căn cứ
vào tuổi ông anh ruột là Đồng Nhân Qúy (1547) để suy ra ông này sinh vào
khoảng năm 1550 (tức kém ông anh khoảng 3 tuổi). Ông này được cho đi làm con
nuôi từ lúc còn nhỏ.
III.Họ
Đồng ở Nam Sách, Hải Dương
Theo sách “Phượng Đình dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu, đất tỉnh Hải
Dương (thời Nguyễn,
thời tác giả viết sách) là đất châu Giao Chỉ xưa, trước nhà Trần gọi
là Hồng lộ, lại còn gọi là Đông Hải lộ,
sau chia làm Hồng Châu, Nam Sách,…, đến niên hiệu Thuận Thiên nhà Lê (1428 - 1433) gọi là Đông đạo, niên
hiệu Quang Thuận đặt Nam Sách thừa tuyên, niên
hiệu Hồng Đức (1460 - 1497) gọi là Hải Dương thừa tuyên lĩnh 4 phủ:
Thượng Hồng,Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách. Từ đó suy ra, những nhánh họ nào trong
gia phả có đề xuất xứ Hải Dương thì nguồn
gốc dòng họ đều chỉ xuất hiện sau năm 1460. Họ Đồng ở tỉnh Hải Dương ngày nay sinh sống chủ yếu ở các nơi như: Chí
Linh, Nam Sách, Kim Thành, Kinh Môn, Tứ Kỳ, Thanh Hà… 1. Nhánh cụ Pháp loa Đồng Kiên Cương Sau họ Đồng ở Tư Nông, Thái Nguyên, địa danh có người họ Đồng cư trú lâu đời tiếp theo ở nước ta là vùng Nam Sách, Hải Dương, với những bằng chứng ghi trong các văn bản cũng như trên bia đá còn giữ lại được cho đến ngày nay. Việc xác định người họ Đồng đầu tiên xuất hiện ở đất Nam Sách có thể căn cứ theo sách “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh” của Ngô Thì Nhậm, “Danh nhân Yên Tử” của Trần Trương, sách “Phật giáo với văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy, sách “Cảm nhận đạo Phật” của Phạm Kế,… Từ những tư liệu ghi
trong các sách này, cho ta xác định được khá chính xác thời điểm bố cụ Đồng
Kiên Cương là Đồng Thuần Mậu đến cư trú trên đất Nam Sách này. Để tìm hiểu về
nhân vật Đồng Kiên Cương, chúng ta phải lần tìm từ tư liệu gốc để đảm bảo độ
chuẩn xác. Theo sách “Tam tổ thực lục” là tập tiểu sử chi tiết về ba người sáng
lập Thiền phái Trúc Lâm đời Trần: Trần Nhân Tông, Pháp Loa (tức Đồng Kiên Cương
同堅剛),
Huyền Quang (tức Lý Đạo Tái). Bộ sách này được ra mắt độc giả lần đầu tiên vào
năm Cảnh Hưng thứ mười sáu (1765), được lưu tại chùa Lân Động, núi Yên Tử. Bộ sách này chủ yếu do Sa
môn Quảng Điền 廣田 và Sa môn Hải Lượng 海量
trùng đính, trùng san, ngoài ra còn có thêm sự trợ giúp của một số người khác nữa.
Trong đó, truyện thứ nhất nói về Trần Nhân Tông (dựa theo Thánh đăng lục), còn
truyện thứ hai nói về Pháp Loa (法螺)
dựa theo “Đoạn sách lục” do chính Pháp Loa viết, sau được đồ đệ Trung Minh biên
tập và người nối nghiệp là Huyền Quang khảo đính, sau đó mới được lược sao khắc
lên bia cổ ở chùa Hương Hải vào năm Nhâm Dần 1362. Bia được khắc lại vào ngày
10 tháng chạp năm Chính Hòa thứ năm (1685) đề “第二大祖碑重修事跡記
Đệ nhị đại tổ bi trùng tu sự tích ký” được đặt ở chùa Hương Hải, thôn Đồng Hòa,
hương Cửu La, thuộc giang Nam Sách, quê hương Pháp Loa. Vào thời Lê, nơi đây được
đổi tên là thôn Tiền, xã Phụ Vệ, tổng An Điền, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương.
Còn ngày nay, chùa Hương Hải (mới được dựng lại) nằm ở thôn Văn Xá, xã Ái Quốc,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, cách ga Tiền Trung khoảng một cây số về phía
Nam. Đây là những tư liệu rất đáng tin cậy, mà nhiều tài liệu về sau viết về
Pháp Loa thường chỉ trích dẫn chủ yếu từ hai nguồn tài liệu trên. Theo một số sách sử Phật
giáo, từ thời Trần đã có cụ Đồng Thuần Mậu và vợ là cụ Vũ Thị Cứu (sách “Danh
nhân Yên Tử” ghi là Vũ Thị Sinh, nhưng theo hiểu biết của tác giả về cách viết
tên thời xưa thì đúng ra phải là Vũ Thị hiệu Từ Cứu) đến sinh sống ở hương Cửu
La, lộ Nam Sách, nay thuộc xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương và sinh
ra cụ Đồng Kiên Cương vào năm 1284. Tuy chưa tìm được tài liệu
nói về xuất xứ của cha mẹ cụ này, nhưng căn cứ vào hoàn cảnh ra đời của cụ được
sinh ra sau khi cha mẹ cụ đã sinh ra 8 người chị gái, ta có thể tính được tương
đối thời gian cụ Đồng Thuần Mậu đến cư trú ở đất này muộn nhất là vào khoảng
năm 1266, tức là trước khi sinh ra cụ Đồng Kiên Cương khoảng 18 năm (theo lối
sinh sản tự nhiên như ngày xưa thì cứ sau khoảng 2 năm lại sinh một người con). Theo lịch sử Đệ nhị tổ Trúc Lâm ở Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, cụ Đồng Kiên Cương (hiệu là Thiện Lai, có pháp danh là Pháp Loa), được sinh ra vào ngày 7 tháng 5 năm 1284, và viên tịch năm 1330, di hài được táng trong tháp mộ (Viên Thông bảo tháp) tại chùa Thanh Mai, Hải Dương và không để lại hậu duệ, trong khi cụ là con trai duy nhất trong 9 chị em.
Ngoài ra, ở khu vực Nam Sách còn có nhánh họ Đồng
nữa để lại hậu duệ sớm là nhánh họ Đồng của nhà ông Đồng Thức ở khu vực Phụ Vệ,
nay thuộc Nam Sách, Hải Dương, đỗ khoa thi Thái học sinh (tương đương với Tiến
sỹ của các triều về sau này) vào năm 1393 đời vua Trần Thuận Tông (Khoa thi
Thái học sinh được nhà Trần mở lần đầu vào năm Nhâm Thìn 1232 rồi theo lệ cứ 7
năm mở một lần). Như vậy, sơ bộ tính ra
nhánh họ Đồng này đến cư trú tại vùng Phụ Vệ, Nam Sách chậm nhất là vào năm
1363, trước khi đỗ đạt khoảng 30 năm (với sai số có thể lên đến hàng chục năm).
Hậu duệ của nhánh này rất có thể đã di cư đến các địa danh khác, nay chưa có tư
liệu để xác định.
IV.
Một số nơi có nguồn gốc họ Đồng từ Thiết Úng, xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội
1.Họ
Đồng huyện Kim Thành, Hải Dương
Huyện Kim Thành đến niên
hiệu Quang Thuận đời Lê (1460 - 1469) mới được đặt tên này, còn ở đời
Trần có tên là huyện Phí Gia. Cụ Đồng Nhân Phái đời thứ
12, ở đất Thiết Úng, huyện Đông Ngạn xưa, thuộc đất Đông Anh ngày nay. Cụ sinh
năm Canh Thìn (1580), đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ năm
Trong huyện Kim Thành
ngày nay. Một vài nhánh họ Đồng ở đây còn di cư ra đến vùng Hoa Động, Thủy
Nguyên, Hải Phòng (có tấm bia công đức của nhánh họ Đồng ở Bính Động trong nhà
thờ tổ ở Phù Tải). Gia phả của nhánh họ Đồng ở thôn Phù Tải, xã Kim Đính, huyện
Kim Thành, Hải Dương không biết rõ ông tổ ở đây từ đâu đến và đến đất này vào
thời gian nào, chỉ truyền lại đoạn văn Nôm “Cái văn gia chi hữu phổ do quốc hữu
sử sở dĩ cửu kỳ truyền nhi chiếu lai thế rã. Ngô gia Đồng thị cổ triệu tôn bồi
ư Phù Tải cựu hỹ; lịch đại khoa quan, dịch thế trâm anh nguyên viễn nhi cô điệt,
cẩm cẩm sinh hồ hậu giả nan đắc tường yên đãn chỉ cựu phổ trung liệt tự”, với ý
đại lược nói rằng họ Đồng ở đất Phù Tải này thuộc dòng dõi cao sang, đã từng đỗ
đại khoa, làm quan trong triều, được ghi trong quốc sử, người đời sau khó mà biết
rõ được. Qua đoạn phả cổ này kết hợp
với bài thơ “Dựng làng” được truyền từ xưa tới nay tại nơi đây, ta có thể suy
đoán được nhánh họ Đồng này có nguồn gốc từ Thiết Úng, Đông Anh đến. Tuy nhiên,
có một quan điểm khác biệt ở chỗ trong đoạn gia phả ghi Đồng tướng công tự
Quang Riệp là người đứng đầu trong gia phả của nhánh này. Trong khi đó, cụ viễn
tổ của đệ nhị giáp Tiến sỹ có tên là Đồng Nhân Phái, mặc dù có sự khác tên
nhưng tác giả bài viết có quan điểm riêng rằng hai tên nhưng chỉ là một người,
đó là cụ Đồng Nhân Phái. Cụ là người có chức sắc, địa vị, đã đỗ Tiến sỹ được
ghi vào sử sách quốc gia với tên tuổi rõ ràng, mà lại đứng “thứ hai bảng vàng”
tức là đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ. Mặt khác, điều này lại trùng khớp với một phần
nội dung được ghi trong gia phả cổ ở Thiết Úng, Đông Anh, khi cụ Đồng Nhân Phái
về nhậm chức ở Hải Dương vào năm Kỷ Tỵ 1629, “quẩn quanh qua bốn mùa xuân” đến
năm Qúy Dậu 1633 mới chọn được đất xây dựng được điền trang và lấy vợ bé sinh
ra ông Đồng Chính Hải vào năm đó tương ứng với ông họ Đồng có tên tự là Quang
Ruệ được ghi trong gia phả ở nhánh này. Như vậy, nhánh họ Đồng
này được hình thành vào năm 1633, còn ông tổ đầu tiên Đồng Nhân Phái tức Đồng
tướng công tự Quang Riệp (ông viễn tổ đứng đầu trong gia phả của nhánh này) sau
hơn chục năm công tác ở vùng đó đã chuyển về kinh đô giữ chức vụ khác cao hơn
và sau đó có thời kỳ được cử đi công tác tại các vùng khác, vì vậy mà nhánh họ
Đồng này về sau không biết gốc tích của mình. Ngay cả ông Đồng Chính Hải (tương
ứng với ông Đồng quý công tự Quang Ruệ) sau cũng được bà vợ cả của ông Đồng
Nhân Phái chấp nhận đưa về Thiết Úng, Đông Anh để nuôi dưỡng (ghi trong phần
ngoại phả), chỉ còn ông đứng thứ 3 trong gia phả ở đây là Đồng Quý Công tự Phúc
Trực có thể có tên thật là Đồng Nhân Phú là hoàn toàn sinh ra và lớn lên ở đất
này. Trong gia phả ở Thiết Úng
còn ghi rõ ông Đồng Nhân Phú lấy vợ họ Trần. Đến ông Đồng Văn Thể và ông Đồng
Thành Ý trong gia phả ở đây, theo cách đặt tên ngày xưa thì đây là tên chính
danh. Cách lập gia phả ở nhánh họ Đồng này khiến người xem hoài nghi, chẳng lẽ
cả 13 đời sau đều độc đinh hay sao, hoặc là có sự nhầm lẫn từ anh em cùng hàng
bị chuyển thành bố con? Cả 3 ông tổ đầu tiên trong gia phả ở đây đều không phải
là mang tên chính danh mà chỉ là tên tự, mà ông tổ thứ ba là Đồng quý công tự
Phúc Trực có phải có tên thật là Đồng Nhân Phú (theo gia phả ở Thiết Úng) có
đúng là Vũ vệ đại tướng quân phải tự vẫn trên sông trước cửa làng khi không chấp
hành lệnh của Triều đình đi đánh Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận He) hay không? Về
quan điểm này còn phải xem xét và viết trong một mục riêng về một số nhân vật đặc
biệt của họ Đồng. Bởi vì cho đến nay, tác giả vẫn chưa tìm được nhân vật nào họ
Đồng trong số các tướng được triều đình Hậu Lê (triều vua Lê Hiển Tông 1740 -
1786) cử đi đánh Quận He cùng với các tướng Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng,
Đinh Văn Giai, Nguyễn Trọng Uông, ..., được ghi trong sử sách. Gia phả của nhánh họ Đồng ở thôn Đồng Xá, xã Đồng
Gia, huyện Kim Thành, Hải Dương chỉ ghi được tên của các cụ Trung tổ từ năm
1750 về sau, mà không biết được các cụ Thượng tổ từ đâu đến. Nhưng theo suy
đoán của tác giả, khả năng do có sự phân bố địa lý khu vực hành chính thời Hậu
Lê, đất đai còn rộng rãi, dân cư thưa thớt mà cự ly từ Đồng Xá đến Phù Tải rất
gần, nằm trong địa giới của một tổng thời xưa nên có khả năng là cùng một nguồn
gốc. 2.Trong
gia phả ở Thiết Úng còn cho biết có một nhánh của họ Đồng ở
đây trong đó có cụ Đồng Nhân Qúy chạy loạn sang xã Mai Man, huyện An Lãng, phủ
Tam Đái, xứ Sơn Tây xưa, trong thời kỳ loạn triều Mạc, khi mà Thái sư Quốc
công Triều Lê trung hưng (Trịnh Tùng, theo cách gọi trong gia phả) đem quân thảo
phạt nhà Mạc, tiến đánh chiếm lại Đông Kinh (tên kinh đô Thăng Long thời bấy giờ)
vào năm Nhâm Thìn 1592, bắt được Mạc Mậu Hợp, sự kiện này xảy ra vào thời vua
Lê Thế Tông (1573 - 1600) và nhánh họ Đồng ở vùng Sơn Tây có lẽ được hình thành
nên từ khoảng thời gian đó. Theo gia phả của
nhánh họ Đồng ở thôn Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà
Nội ngày nay (xứ Sơn Tây ngày xưa) thì ông tổ ở đây là Đồng
quý công tự Phủ Sự, có vợ họ Thạch hiệu Diệu Vinh, về
đây làm ăn sinh sống, truyền đến nay đã
được khoảng 14 đời. Nhánh họ Đồng này thường tổ chức giỗ tổ vào ngày 29
tháng 9 âm lịch hàng năm. 3.Họ
Đồng ở Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định Tác giả kết nối dữ liệu
giữa thời gian đi biệt xứ của các nhánh họ Đồng ở Thiết Úng với khoảng thời
gian xuất hiện nhánh họ Đồng ở Nhân Hậu, Nghĩa Thái (thần tích đình làng Nhân Hậu
có ghi thời Hậu Lê có 4 họ đến khai khẩn mở làng là các họ Đinh, Đồng, Vũ, Phạm
với 27 xuất đinh ban đầu và làng Nhân Hậu thời ban đầu đó có tên là Thuần Hậu)
thì mới tìm ra được mấy nhánh đi biệt xứ cư trú ở vùng nào.
Tác giả cho rằng, nếu tiếp
nối kiểu tính đời như trong gia phả ở Thiết Úng thì đến đời thứ 14, tận dụng uy
tín và thế lực của ông Đồng Nhân Phái trong hàng ngũ quan lại lúc đó, các cháu
của ông thuộc nhánh trưởng Đồng Văn Viện sau khi phải đi làm con nuôi ở xã Hà Vỹ
(trên vùng đất thôn Châu Phong ngày nay) bên cạnh xã Thiết Úng và đất tổ ở xã
Thiết Úng lúc đó đã trở nên chật chội cho sự phát triển của dòng họ, cho nên
nhánh này đã di cư về sống ở vùng ven biển thuộc xã Hải Lãng, huyện Đại An,
vùng Sơn Nam hạ thời Hậu Lê xưa, hình thành nên nhánh họ Đồng ở Nghĩa Hưng, Nam
Định ngày nay (xã Hải Lãng xưa gồm một số phần đất của cả mấy xã thuộc miền thượng
Nghĩa Hưng ngày nay, như: Nghĩa Thái, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Châu,…). Tụ tập về định cư sinh sống
tại đây gồm con cháu của các ông Đồng Chính Trào, Đồng Như Trân, Đồng Như Châu
(Tác giả cho rằng, do anh em mách bảo nhau về vùng đất mới này) và có thể còn
có cả nhánh cháu chắt của cụ Đồng Nhân Giáo đi làm con nuôi ở Chũ (thuộc Bắc
Giang ngày nay), sau khi ra Chí Linh cũng lại di cư về đây. Họ Đồng ở Nghĩa
Hưng tuy cùng một gốc nhưng lại từ mấy nhánh về vào các khoảng thời gian khác
nhau (khoảng từ năm 1652 đến năm 1679). Tác giả suy đoán, trong
số các ông, nhánh họ Đồng ở xã Quyết Thắng, Thanh Hà, Hải Dương rất có thể có
ông về cả Nghĩa Thái, Nghĩa Hưng (vì ở Nghĩa Thái có nhiều nhánh họ Đồng từ
nhiều nơi về). Nhánh họ Đồng theo Thiên Chúa giáo ở Nhân Hậu,
Nghĩa Thái sau có chi nhánh về Lý Nhân, Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng. Khi tham khảo con đường di cư của họ Đỗ
cũng theo Thiên Chúa giáo ở Lý Nhân, tác giả suy đoán rằng, nhánh này từ
Đồng Xá, Đồng Gia, Kim Thành, Hải Dương về Nhân Hậu, Nghĩa Thái, Nghĩa
Hưng, Nam Định.?! Tác giả họ Đồng ở xã
Nghĩa Sơn gồm 4 nhánh khác nhau, nhưng có nguồn gốc chủ yếu là từ Nhân Hậu,
Nghĩa Thái (cùng với khoảng 16 cụ thuộc mấy họ trong đó chủ yếu là các họ Lê, Đồng,
Nguyễn, Phạm,…) di cư ra vùng đất bãi bồi bên dưới cửa Liêu (bên dưới vùng đất
Liêu Hải, xã Nghĩa Trung, huyện Nghĩa Hưng ngày nay) vào khoảng năm 1874 (thời
vua Tự Đức 1848 - 1883). Xưa kia, vùng đất thôn Lý Nhân thuộc xã Nghĩa Sơn ngày
nay được gọi là Nhân Hậu trại hay còn gọi là Nhân Hậu đàng ngoài, nên trong
đình làng bố trí các ban thờ cùng các đối tượng chính được thờ tương tự như ở
đình làng Nhân Hậu và cả 2 làng này từ xưa đến nay thường tổ chức cúng giỗ Tiến
sỹ Đồng Công Viện vào ngày 22 tháng giêng âm lịch tại đình làng. Tiến sỹ Đồng Công Viện được
triều đình Hậu Lê cho khắc tên vào bia đá số 59 tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám,
nhưng ở nơi ông sinh ra (làng Nhân Hậu xưa, thuộc xã Nghĩa Thái ngày nay) lại
không biết bố mẹ ông từ đâu đến, trong khi muốn đi dự thi đại khoa thời đó thì
đã phải khai báo nguồn gốc sinh thành. Theo truyền ngôn, nguyên
do là ông lớn lên trong một hoàn cảnh đặc biệt, chịu cảnh mồ côi (bố mất sớm,
có truyền ngôn lại nói là mồ côi mẹ) từ lúc còn quá nhỏ tuổi và được coi là đã
tự vẫn (khi bị xỉ nhục) trong dịp về làng làm lễ vinh quy bái tổ sau khi đã đỗ
đại khoa và đã được Triều đình bổ giữ chức quan Giám sát ngự sử. Lại có truyền ngôn rằng,
vấn đề này liên quan đến một kỳ án trong lịch sử thời phong kiến, để lại một dấu
chấm hỏi ngay cả trong sử sách quốc gia cho đến tận ngày nay, tức khoảng hơn
300 năm sau
Sau này, họ Đồng từ Nghĩa
Thái, Nghĩa Sơn còn có một số nhánh họ Đồng di cư lên Tuyên Quang, Lào Cai, Lạng
Sơn, Nam Sách,... Điều này được ghi trong gia phả một số nhánh họ Đồng ở Nghĩa
Thái, Nghĩa Sơn. Hiện nay, nhóm người này vẫn còn quan hệ anh em họ hàng, việc
hiếu, việc hỷ. Một số nhóm người họ Đồng sinh sống tại các nơi này cũng sẽ có
cùng nguồn gốc lâu đời từ Thiết Úng, Đông Anh, Hà Nội. Gia phả nhánh họ Đồng ở
Lý Nhân có ghi con cháu nhánh ông Đồng Xuân Phan di cư lên Lào Cai, ở phia bắc
ga Lào Cai và vùng đất Nhò Trong (gần ga Nhò). Gia phả một nhánh họ Đồng ở Nhân
Hậu có ghi con cháu nhánh ông Đồng Văn Vọng di cư lên Lạng Sơn (cư trú ở huyện
Bắc Sơn). Trước nữa, còn có tổ tiên (ông nội) nhà anh Đồng Mạnh Hùng (phóng
viên VOV) gốc từ vùng Hồng Thái (tên cũ của vùng đất có xã Nghĩa Thái, huyện
Nghĩa Hưng ngày nay), di cư lên Tuyên Quang cách đây gần trăm năm. Tổ tiên họ Đồng ở Nghĩa
Hưng có nhánh còn truyền lại rằng trước khi về xã Hải Lãng, huyện Đại An, thuộc
phủ Nghĩa Hưng (phủ Nghĩa Hưng thời Hậu Lê kéo lên tận vùng núi Gôi, gồm các
huyện: Thiên Bản, Ý Yên, Vọng Doanh, Đại An), người họ Đồng từ vùng Kinh Bắc về
đã từng sinh sống ở vùng gần núi Gôi, có lẽ là đất phủ Lườn xưa, nay thuộc xã
Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, Nam Định ngày nay. Sở dĩ tác giả có phán
đoán như vậy là nhờ liên kết với truyền ngôn của một nhánh họ Đồng ở vùng Nghĩa
Thái. Các cụ ở đây lại truyền rằng có một ông họ Đồng ở phía Gôi về đất Hải Lạng
(Hải Lạng trang, tên gọi chệch đi của đất Hải Lãng) xưng tên là Đồng Công Anh
(hay còn gọi là Giáp Huệ, mộ táng tại Hưng Lộc, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Hưng, Nam Định),
sinh ra 3 ông tổ trú ở vùng phía Bắc Nghĩa Hưng ngày nay, sau con cháu dịch dần
về phía Thượng Hương thuộc thôn Tràng Khê (xưa thuộc đất làng Thuần Hậu) và
thôn Nhân Hậu ngày nay, một ông tên là Đồng Nghĩa Trai (có cụ nói là Đồng Khánh
Trai) ở đất Thượng Hương (xưa thuộc đất Nhân Hậu, tượng thờ trong đình làng
Nhân Hậu ở phía tay phải người nhìn vào) thuộc xã Nghĩa Thái, Nghĩa Hưng ngày
nay, một ông ở thôn Hà Dương, thuộc xã Nghĩa Châu, Nghĩa Hưng ngày nay (ông tổ
7 đời ở nhánh này tên là Đồng Xuân Lợi), một ông ở Lạc Chính (không rõ tên). Họ
Đồng ở khu vực Nghĩa Thái này có khoảng 4 nhánh và từ đây về sau có nhánh về
thôn Lý Nhân, xã Nghĩa Sơn. Từ xưa, ở vùng đất Nhân Hậu này đã xuất hiện hai thầy
đồ họ Đồng thuộc hai nhánh là các cụ Đồng Xuân Chí và Đồng Xuân Trứ, các cụ này
đã lập gia phả cho dòng họ ở đất này, nhưng rất đáng tiếc là một gia phả đã bị
mất vào năm 1953 khi giặc Pháp càn qua đây, chỉ còn lại một gia phả của nhánh cụ
Đồng Xuân Trứ. Đất Lý Nhân về sau cũng xuất hiện một thầy đồ nổi tiếng trong
khu vực là ông Đồng Xuân Vinh, ông là học trò của thầy đồ Bùi Đăng Bính người
Yên Mỹ, Ý Yên, Nam Định được mời về thôn Lý Nhân dạy học. Trong vùng gần núi Gôi còn có người họ Đồng sinh sống ở xã Yên Hồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Đây cũng chính là quê hương của Hòa thượng Thích Gia Quang (thế danh là Đồng Văn Thu, sinh đầu năm 1954, nhưng là tuổi Qúy Tỵ). Trước đây, nơi đây còn xuất hiện Hòa thượng Thích Thanh Hướng, thế danh là Đồng Văn Hướng (1931 – 2001), chính là chú ruột của Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sư Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Vị này đã đi tu từ nhỏ và đến năm ba mươi tuổi đã được phân công trụ trì chùa Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định. Có thể suy đoán, giả thuyết, nhánh họ Đồng này từ Trực Khang di cư ngược lên, vì trong gia phả nhánh họ Đồng ở Lạc Chính, Trực Khang từ lâu cũng đã có người đi tu và cũng có mồ mả một số cụ còn đặt ở đất An Thái thuộc Ý Yên ngày nay. Tuy nhiên, điều này không thể xem là một căn cứ cho một nhận định.
4.Nguồn
gốc họ Đồng ở một số địa phương
Nhờ gia phả của nhánh họ
Đồng ở thôn Thường Sơn, xã Thủy Đường, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng, mà ta biết được nhánh họ Đồng này xuất xứ
làm con nuôi họ Nguyễn cho nên mới hình thành nhánh họ kép Nguyễn Đồng
sinh sống tại vùng đất Triền Dương, Chí Linh, sau đó mới di cư đến Đường Sơn
trang, tức thôn Thường Sơn ngày nay. Bởi vì theo bộ Dân luật thời Hồng Đức, khi
một người đi làm con nuôi của người dòng họ khác thì phải đặt họ mình đứng sau
họ bố nuôi.
Họ Đồng Tân Phong, huyện
Kiến Thuỵ có gia phả ghi theo truyền ngôn được chép vào cuốn “Lịch sử Đảng bộ
xã Tân Phong”, họ Đồng Xuân thôn Lão Phong, xã Tân Phong, huyện Kiến Thụy, Hải
Phòng đến lập nghiệp ở huyện Kiến Thuỵ từ thế kỷ thứ XIII (vào đời nhà Trần, đã
được hơn 700 năm). Họ Đồng Đại Hợp, Kiến Thuỵ
được Tổ tiên truyền lại là Cụ Tổ Đồng Tiến Triều từng chữ chức quan Tứ trụ triều
đình Nhà Mạc (1527–1677). Họ Đồng thôn Phù Liễn xã Thuỷ Sơn, huyện Thuỷ
Nguyên Họ Đồng về làng Phù Liễn, xã Thủy Sơn, huyện Thủy Nguyên lập ấp vào khoảng
năm 1520, các cụ truyền lại từ miền biển Đồ Sơn về, tên cụ Thượng tổ là Đồng
Tiên Sinh, Cụ là Đô Chỉ huy sứ đương triều (thời nhà Mạc). Tên các cụ tổ tiên họ
Đồng Phù Liễn được lưu vào trong văn bia đình, tam quan cũ của chùa làng Phù Liễn
có ghi niên đại bằng chữ Nho, dịch là: “Khánh Long tự, Chính Hòa nhị thập niên”,
năm 1699. Họ Đồng Phù Ninh dựa vào
Văn bia chùa Thiên Vũ được xây dựng từ triều Lý (khoảng vào những năm 1009, 1225),
trong chùa còn nhiều văn bia đá cổ, có khoảng vài chục người họ Đồng có công đức
xây dựng chùa được ghi khắc trên minh bia, trong số đó có bà Đồng Thị Liên, thuộc
ngành 3 tu thành chính quả, ghi khắc trên bia đá, và lưu giữ đến ngày nay. Các chi họ Đồng Kênh
Giang, họ Đồng Tân Dân, họ Đồng Thái Sơn trong Phú ý, gia phả và truyền ngôn
các Nhánh họ này, nói rằng cụ Tổ có nguồn gốc từ Hải Dương… 4.2.Họ
Đồng Lạc Chính xã Trực Khang, huyện trực Ninh, Nam Định
Theo tác giả suy đoán, họ
Đồng ở Nam Định còn có nhánh nguồn gốc đi từ Thiết Úng ra Chũ (thuộc Bắc Giang
ngày nay) (Không rõ cụ từ năm nào, tên tuổi của Cụ) sau
về Triền Dương, Chí Linh (nhánh làm con nuôi) và sau đó di cư tiếp về phủ
Nghĩa Hưng. Ngoài ra, theo tác giả suy đoán, còn một số có chi về
Thủy Đường, Thủy Nguyên, có chi về Diêm Điền. Hiện tại, mấy chi nhánh họ
Đồng đang còn cư trú tại đây cho đến ngày nay cũng mới chỉ được khoảng 13
đời (có nhánh 18 đời) và cách đây chừng 6 năm tác giả đã đến tìm hiểu nhánh
họ Đồng ở Cổ Thành này và được nghe ông Đồng Tố Kim nói
là các cụ ở nhánh của ông truyền lại là cụ tổ từ đất
Gia Lương của vùng Kinh Bắc di cư ra đây. Theo gia phả của nhánh
họ Đồng ở khu vực Cổ Thành, Chí Linh thì cụ tổ là Đồng Tố Thành ở nơi khác về
đây ban đầu làm nghề chèo đò, truyền đến nay mới được khoảng 13 đời, gia phả
trong nhà thờ tổ mới được xây dựng vào năm 2014 của nhánh này ghi rõ đến đời
ông Đồng Tố Kim (1942) mới chỉ là đời thứ 11.
4.3.Họ
Đồng ở Thanh Hóa
Họ Đồng ở Thanh Hóa
có 2 nhánh khác nhau từ 2 hướng di cư về, trong đó một hướng từ Nam Sách thuộc nhánh nhà ông Đồng Thức vào và một hướng khác từ
Nghệ An thuộc nhánh ông Đồng Bồi đi ngược ra, tuy nhiên nhánh Nghệ An cũng lại
có gốc từ Hải Dương vào (theo gia phả của nhánh họ Đồng ở Quỳnh Lưu, Nghệ An). Trong
gia phả họ Đồng ở nhánh Quảng Thắng, Quảng Xương (Nay là Thành phố
Thanh Hóa) có viết, họ Đồng ở đây có ông Quận công Đồng Như Hồng ở triều
Lê Hiển Tông (1740 -1786) và nhánh này sau lại có chi di cư ra Cổ Loa, xứ Kinh
Bắc xưa, nay thuộc đất Đông Anh, Hà Nội.
4.4.Họ
Đồng ở Hải Dương
Nhánh họ Đồng ở xã Quyết
Thắng này, theo suy đoán của tác giả có con cháu di cư vào TP. Hồ Chí
Minh và tỉnh Đồng Nai. Một số nhánh họ Đồng ở khu vực Hải
Phòng như các nhánh hiện đang cư trú ở An Thái, Tiểu Trà, Mỹ Khê,…, thuộc dạng
di cư lan tỏa từ các vùng lân cận như Kim Thành, Nam Sách ra. Tác giả
cũng suy đoán cho rằng mấy nhánh này xuất xứ từ 4 anh em đi
nơi khác của nhánh tổ Trung (ông Đồng Quang Trung) con cụ Đồng Tế Trị gốc Trại
Chuối, di cư ra mấy vùng đất bồi ven biển này vào thời Hậu Lê hoặc thời Nguyễn,
trong đó với nhánh họ Đồng ở An Thái có 8 người con thì 6 người lại di cư đi
nơi khác, như là Có thể có người đã về Tiểu Trà (ông tổ ở đây là Đồng quý
công tự Pháp Tín), rồi cũng có thể từ Tiểu Trà lại có nhánh về Mỹ Khê, Kiến An, Hải Phòng.?!
Họ Đồng ở đây sau
còn có nhiều nhánh di cư đi các nơi khác như ra Thành phố Hải Dương, ra Mạo
Khê, Đông Triều, Quảng Ninh, vào Đồng Nai, Kon Tum, sang Tiệp Khắc cũ,... Những
nhánh đi khỏi nơi đây rất có thể sẽ trở thành những ông tổ
của một số nhánh họ Đồng ở nơi khác mà ở đó đang có nhu cầu tìm kiếm
nguồn gốc dòng họ của mình. Nhánh họ Đồng ở thôn An Hưng, xã Quang Trung, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải
Dương còn giữ được 02 ngôi mộ Tổ có ghi năm sinh của cụ ông Đồng công tự
Phúc Tín, sinh vào năm 1363. Đây là niên đại tuyệt đối của những ngôi mộ Tổ
lâu đời ở Việt Nam, là tháp mộ của Thiền sư Pháp Loa- Đồng Kiên Cương
sinh năm 1284. Ngay sát cạnh nhánh họ Đồng An Hưng là Nhánh họ Đồng ở Cầu
Xe, Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương (đã nói ở trên) - ông Đồng Minh Đạt là Trưởng tộc,
có họ hàng với cụ Pháp Loa- Đồng Kiên Cương (vậy là cụ Đồng Thuần Mậu có họ
hàng ?). 4.5.Họ
Đồng ở Nghệ An - Hà Tĩnh Theo gia phả của nhánh họ
Đồng ở Nghệ An và Hà Tĩnh, thì ông tổ là Đồng Sỹ Khôi (tức Đồng Đại La) từ phủ
Trạch Nội, Nam Sách, Hải Dương, di cư vào xã Kiều Mộc, huyện Đông Thành,
Nghệ An, sinh ra ông Đồng Bồi, sau đó từ đây lại có nhánh đi vào xã
Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh, một nhánh khác đi ra Quảng Xương (đến niên hiệu
Quang Thuận nhà Lê mới đặt tên này, xưa là huyện Vĩnh Xương), Thanh Hóa, từ
Thanh Hóa lại có nhánh quay ra Cổ Loa, Đông Anh. Gia phả của nhánh
họ Đồng ở Thanh Hóa được lập vào năm Giáp Ngọ 1954 có ghi xuất xứ
dòng họ như sau: ( Tương truyền kỳ
tiên Trung Quốc nhân Đồng Mã thị bất tri hà duyên cố nhất
nhân thích bản quốc Hải Dương trấn Nam Giản xã cư yên Tư tự gia nhất hoạch
vi Đồng tự…, có nghĩa là:… tương truyền đầu tiên có một người Trung Quốc họ
Đồng Mã không rõ duyên cớ gì sang nước ta cư trú ở xã
Nam Giản trấn Hải Dương nguyên gốc từ chữ Tư thêm một vạch thành chữ
Đồng…)
Trong gia phả nhánh
họ Đồng ở làng Thanh Cao, xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh, có ghi người họ Đồng về đây làm ăn sinh sống từ thời Lê,
ở nhánh này có nhân vật nổi tiếng là Đồng Văn Năng, một võ quan thời Lê (trong
gia phả ở đây chưa ghi rõ triều Lê nào), được triều đình sắc phong “ Lê triều tán
trị công thần đặc tiến Anh vũ tướng quân Phổ Dương hầu”, có nhà thờ riêng
nằm trong khuôn viên nhà thờ dòng tộc và nhà thờ ông đã được xếp hạng Di tích lịch
sử văn hóa cấp tỉnh vào năm 2010. Căn cứ theo gia phả họ Đồng
nhánh Nghệ An và Thanh Hóa thì tác giả được biết và đoán là ông tổ họ Đồng từ
Nghệ An vào Thạch Hà trước ông tổ từ Nghệ An ra Thanh Hóa, vậy ông tổ họ Đồng
nhánh này, có thể đã cư trú ở đây trước thời Lê Hiển Tông, tức là thời Lê Ý
Tông (1735 - 1740).
Theo sách “Một vùng Yên
Thế” của Anh Vũ và Nguyễn Xuân Cần, trong số những người họ Đồng giữ
chức vụ chỉ huy đã đầu quân cho Đề Thám đánh Pháp có Đề Bảo tên thật là Đồng Văn Bảo người làng Luộc Giới, có Đề Son tên thật
là Đồng Văn Son và Đốc Lược tên thật là Đồng Văn Lược, cả 2 đều là người
làng Kim Tràng, xã Việt Lập, Tân Yên, Bắc Giang. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế
còn cụ Đồng Văn Trung làm Trung quân Chánh Đề đốc trong cuộc chống thổ phỉ
T ầu 20 năm (18621882), cụ Quản Hương (Đồng Văn Hương) đã tổ chức dân binh lập
làng chiến đấu, đánh nhiều trận với giặc T ầu để bảo vệ xóm làng, trong cuộc khởi
Ngoài ra có thể còn có những
người họ Đồng khác cũng tham gia phong trào, nhưng vì không nổi tiếng nên không
được nêu tên. Trong các nhánh họ
Đồng ở Bắc Giang cũng xuất hiện một nhà tu hành là Đại đức Thích
Chân Thường (thế danh là Đồng Xuân Tuấn, sinh năm 1978), người quê thôn
Xuân Phong, xã Chu Điện, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Đại đức Thích Chân Thường
và gia đình có nguồn gốc từ họ Đồng Tân Phong, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Hiện
Đại đức đang trụ trì tại chùa Linh Xuân ở làng Tú Đôi, xã Kiến Quốc, huyện Kiến
Thụy, Hải Phòng.
4.7.Họ
Đồng ở Thái Bình
Ở xã Nhữ Thủy,
huyện Ngự Thiên, nay thuộc xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình,
có ông Đồng Hưu đỗ Tiến sỹ (Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân) năm
Giáp Thìn 1724, đời vua Lê Dụ Tông (1705 - 1729). Ông sinh năm 1687, vậy
cha mẹ ông phải đến cư trú tại vùng đất này chậm nhất là vào khoảng năm 1667, đời
vua Lê Huyền Tông (1663 - 1671). Theo tác giả, nhánh họ Đồng
này nhiều khả năng là từ Nhân Huệ, Chí Linh về, là hậu duệ thuộc dòng dõi ông Đồng
Hãng, Đồng Đắc (thường hay đặt tên có hai từ) vì ông Đồng Hưu sau khi về trí sĩ
(nghỉ hưu) đã về sống và mất tại Chí Linh. Bia đá tại quê hương ông đã bị mòn
không đọc được chữ ghi trên đó. Di tích nơi thờ tự ông
đã bị phá, ban thờ ông mới được phục dựng đưa vào trong chùa làng (Quang
Minh Tự) mới được khánh thành vào năm 2013. Nhánh họ Đồng ở đây có
ông tổ cỡ 14 đời là Đồng Tôn Cảnh với số người mang họ Đồng ở đây lên đến hơn
300 người, mà nhánh họ Đồng bên Phủ Cừ, Hưng Yên cũng nhận có nguồn gốc tại
đây. Nhánh họ Đồng ở Ô Mễ, Tân
Phong, Vũ Thư, Thái Bình, căn cứ theo thông tin và gia phả do ông Đồng Văn Nho là Trưởng tộc của nhánh này cung cấp thì
nhánh này có ông viễn tổ là Đồng quý công tự Phúc Mẫn, có vợ
họ Đỗ, nói gốc từ Hồng Lĩnh về đây vào khoảng năm 1632,
ông để lại ông tổ họ Đồng trên đất này tên là Đồng Phúc An (cũng là tên tự) và
nói là phải quay trở về quê cũ vì là con trưởng, sau con cháu nhánh này đã lấy
ngày ông rời làng trở về quê cũ (ngày 14 tháng 2 âm lịch) làm ngày giỗ
tổ, ngoài ra ở đây còn tổ chức giỗ cụ tổ tạ thế tại đất này (cụ Đồng
Phúc An) vào ngày 22 tháng 9 âm lịch. Còn nhánh họ Đồng ở xã Thụy
Trường, huyện Thái Thụy, Thái Bình, chỉ là một nhánh ở Ô Mễ di cư về (nhánh cụ
Đồng Phúc Linh, mới tìm được về gốc ở Ô Mễ từ năm 1994). Từ Ô Mễ còn có nhánh
di cư về vùng Vũ Hội, Vũ Thư, Thái Binh, có nhánh lên Thường Tín, Hà Tây đổi
thành họ Nguyễn và Vũ. Nhánh họ Đồng ở
khu vực Diêm Điền, Thái Thụy, Thái Bình, trước có gia phả nhưng bị quân Cờ
Đen (của Lưu Vĩnh Phúc) tràn về đây lấy mất, một số tư liệu
còn lại thì lại bị mất vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Ông tổ nhánh này gốc từ Chí Linh có 5 người con, gồm 4 trai và một
gái: Con trai đầu vẫn ở tại Chí Linh, con trai thứ hai ra Đông
Triều (chợ Cột), con gái là thứ ba tên là Đồng Thị Thanh Hoa ở lại chùa Chí
Linh với bố, con thứ tư là Đồng Năng Du sinh sống tại Diêm Điền (phần mộ được đặt
tại đây), còn con út (thứ năm) vào lập nghiệp tại Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nhánh họ Đồng
ở đây thường tổ chức giỗ ông tổ mất tại đây vào ngày 26 tháng 3 âm lịch thay
cho ngày mất của ông này vào ngày 15 Nhánh họ Đồng
ở thôn Chiêm, Liên Hiệp, Hưng Hà, Thái Bình (quê ông Đồng Hưu) có ông
tổ cỡ 13 đời ở đây là Đồng Tôn Cảnh, có quan hệ với
nhánh họ Đồng ở bên Phủ Cừ, Hưng Yên, nói là cùng một gốc
(từ thôn Chiêm di cư sang Phủ Cừ, Hưng Yên). T ừ thôn Chiêm còn
có nhánh họ Đồng về ở thôn Phú Ốc, xã Thái Hưng, huyện Hưng Hà, có ông tổ cỡ 13
đời là Đồng Văn An, nhưng chưa biết lý do vì sao các đời sau lại đổi thành họ
Lưu. Cũng từnhánh họ Đồng ở đây còn có chi họ về cư trú ở xã Kim
Chung, Hưng Hà, Thái Bình. Nhánh họ Đồng ở
một số vùng lân cận như xã Thái Phương, Hưng Hà, Thái Bình, nói có
quan hệ khá mật thiết với nhánh họ Đồng ở Kim Thành, Hải Dương. 4.8.Nhánh
họ Đồng Duyên Yết, Hồng Thái, Phú Xuyên, Hà Nội
Nhánh họ Đồng ở thôn
Duyên Yết, xã Hồng Thái, huyện Phú Xuyên cũng là gồm mấy nguồn di cư về đây vào cuối thời Hậu Lê, có thể có nhánh từ Thường Tín di cư về phía bờ sông
Hồng gần đấy, có nhánh từ bên Mễ Sở, Văn Giang bên kia sông Hồng di cư sang. Sự tích lễ
“chạy lợn” ở đình Thượng nơi đây chứng tỏ làng này được hình thành vào thời Hậu Lê khoảng
triều vua Lê Chiêu Thống (1787 - 1788). Trong đình làng nơi đây
còn lưu giữ được khá đầy đủ các sắc phong thần của triều Nguyễn và một sắc
phong thần sớm nhất của triều Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh (1793 -1801). Nhánh
họ Đồng ở thôn Duyên Y ết, xã Hồng Thái, huyện Phú
Xuyên, Hà Tây (cũ) lại có một chi nhánh di cư lên Tuyên Quang, có nhánh quay về huyện Vũ Thư, Thái Bình ngày nay..
4.9.Nhánh
họ Đồng các tỉnh miền Trung đến các tỉnh Nam Bộ ( Quảng Bình - Huế - Đà Nẵng –
Bình Định – Phú Yên – Khánh Hòa - Cần Thơ - Vĩnh Long- Trà Vinh…) Ở phía Nam, hai nhánh họ
Đồng ở khu vực Huế nghe truyền là từ Thanh Hóa di cư vào. Nhánh họ Đồng ở Trà Đình,
Quế Phú, Quế Sơn, Quảng Nam là có chứng cứ từ ngoài Bắc vào cư trú ở vùng này từ thời nhà Lê. Gia phả ở đây có ghi ông tổ là Đồng Phước Ninh quê Hải Dương
theo đoàn quân bình Chiêm của vua Lê Thánh Tông vào đánh Chiêm Thành năm Canh Dần
(1470), niên hiệu Hồng Đức (1460 - 1497), rồi được phép ở lại khai phá vùng đất
Quế Sơn thuộc Quảng Nam này. Theo nghiên cứu được ghi
trong sách “Phật giáo với văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy, các vùng khác ở phía Nam từ
Đà Nẵng trở vào, tác giả nhận thấy
phần đông người họ Đồng cũng chỉ có thể cư trú sớm nhất vào năm 1648 (thời vua
Lê Chân Tông) khi mà quân Đàng Trong của chúa Nguyễn bắt sống được hơn 3 vạn
quân Đàng Ngoài của chúa Trịnh (trong số đông lính được tuyển mộ ở các vùng
phía Bắc này khả năng sẽ có người họ Đồng và chúa Nguyễn Phước Tần (1648 -1687)
đã chia số tù binh này cho biên chế cứ 50
người lập thành một đội vào lập thành một ấp để khai khẩn các vùng đất hoang từ phủ Thăng Hoa (vùng Quảng Nam ngày nay) vào đến
Phú Yên, Khánh Hòa. T ổ tiên nhà vua Quang Trung Nguyễn Huệ gốc họ Hồ từ Nghệ An (tên gốc là Hồ Thơm) vào lập nghiệp ở ấp
Tây Sơn vùng Quy Nhơn (đổi sang họ mẹ là họ Nguyễn) cũng rơi vào trong trường hợp
này (theo sách “Gia phả khảo luận và thực
hành” của Dã Lan Nguyễn Đức Dụ). Nhánh họ Đồng ở Hòa Nhơn, Hòa Vang, Đà Nẵng ngày nay có khoảng
500 người được tổ tiên truyền lại là từ Thanh Hóa di cư vào từ thời nhà Nguyễn,
có lẽ là trong thời kỳ Nam tiến của chúa Nguyễn (1653 - 1780). Theo gia phả nối tiếp thời
sau của nhánh họ Đồng ở Thiết Úng do ông Đồng Văn Điểm lập ra vào năm
1985, đến đời thứ 22 có ông Đồng Văn Tuyền và con là Đồng Văn Biên (đời thứ 23)
di cư vào miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và biệt tích từ
đó. Đến đời thứ 24 ở nhánh này còn có các chi của con cháu các ông
Đồng Văn Vạn, Đồng Văn Úc (đời thứ 23) di cư vào Lái Thiêu, Sông Bé (nghe nói
nhánh con ông Đồng Văn Úc đã đổi sang họ Đào), nhánh con ông Đồng Văn Muôn (đời
thứ 23) di cư vào Vũng Tàu (gần đây có ông Đồng Văn Hải đang cư trú ở Vũng Tàu nhận gốc nhánh họ mình từ
Thiết Úng, Đông Anh gọi điện liên lạc với Trưởng và Phó BLL Họ Đồng Việt
Nam). Theo gia phả của nhánh họ
Đồng ở thôn Đồng Xá, xã Đồng Gia,
huyện Kim Thành, Hải Dương thì vào khoảng năm 1954 có nhánh họ Đồng ở đây theo Thiên Chúa giáo di cư vào vùng Sài
Gòn - Gia Định.
5.Tiền
nhân liệt Tổ liệt Tông rạng danh Đồng tộc
Theo thần tích
ở Đình làng Thiết Úng thì họ Đồng ở đây đã có công lớn trong việc
xây dựng lên đình làng này, cho nên từ xưa đến nay, khi làng vào đám lễ
trọng hoặc đến ngày giỗ tổ họ Đồng ở đây (ngày 18 tháng 11 âm
lịch), làng đều phải cử bốn người vào tế lễ ở nhà thờ họ Đồng nằm ở
vị trí ngay phía sau đình làng. Cụ Đồng Nhân Phái sau khi
đỗ Hoàng giáp ở tuổi 49 (âm lịch) và sau đó có nhiều công trạng
nên đã được Triều đình Hậu Lê (triều Lê Thần Tông) lúc đó phong tước dần từ
Tử tước năm Thịnh Đức 3 (1655) lên Bá tước năm Thịnh Đức 5 (1657) rồi
lên đến Hầu tước năm Vĩnh Thọ nguyên niên (1658, Lai Xuyên hầu tước). Ông có vợ
chính thức họ Nguyễn (Nguyễn Thị Ngọc Dạng) là con gái của Tri phủ Nam Sách.
Con trai ông được ấm phong Giám sinh vào học ở Quốc T ử Giám,
con trai cả của ông là Đồng Văn Viện được bổ giữ chức Tư vụ Công bộ, con
gái ông là Đồng Thị Bích làm dâu nhà Thượng thư bộ Lại Dương Quận công.
Ông xin được đất lập trang trại ở Phù T ải, Kim Đính, Kim Thành, Hải
Dương. Người con nuôi của ông là Đồng Nhân Triêm (người gốc họ Đỗ, quê Vĩnh Lộc,
Thanh Hóa), nhờ ảnh hưởng của ông sau cũng được làm Tri phủ Nam Sách, xứ
Hải Dương. Ông đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình
và chỉ được về nghỉ hưu vào tuổi 79 âm lịch (ông về trí sĩ vào năm 1658).
Ngoài ra, nhánh anh em con chú của ông từ họ Nguyễn Đồng đã lấy lại
họ cũ của mình và phát triển ra vùng 5.8. Cụ Đồng Tồn Trạch đỗTiến
sỹ (Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân) năm Bính Tuất 1646, đời
vua Lê Chân Tông (1643 - 1649),Ở xã Triền Dương, huyện Chí
Linh, Hải Dương. Cụ Đồng T ồn Trạch là người làng Lôi Dương và là cháu của cụ Đồng
Đắc.
5.10. Cụ Đồng Công Viện đỗ Tiến sỹ (Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân) năm Nhâm Thìn 1712, đời vua
Lê Dụ Tông (1705 - 1729) Ở xã Hải Lãng, huyện Đại
An, nay chủ yếu là vùng đất của xã Nghĩa Thái,huyện Nghĩa Hưng, Nam Định,
, lúc ông 32 tuổi (ông sinh năm Canh Thân 1680), như vậy cha mẹ ông
từ nơi khác đến cư trú tại vùng đất này chậm nhất cũng là vào khoảng năm
1679. Xã Hải Lãng thời Hậu Lê xưa gồm đất của mấy xã thuộc miền thượng Nghĩa
Hưng ngày nay, trong đó có xã Nghĩa Thái, Nghĩa Thịnh... mà ở vùng này ngày nay
vẫn còn địa danh Hải Lạng (tên đọc chệch của chữ Hải Lãng) nằm ở phía nam
sông Nam Định (sông Đào), bên dưới xã Nghĩa Đồng thuộc huyện Điều này cũng chứng tỏ họ
Đồng đã có ở nước ta từ lâu trước khi nhà Minh sang xâm lược và cũng có mối thù
với quân giặc cướp nước, nên không thể có chuyện nguồn gốc họ Đồng Việt Nam lại
từ hai ông họ Đồng bên Trung Quốc được nhà Minh cử sang làm
quan Ngự sử ở nước ta, lấy vợ ở vùng phủ Lườn rồi ở lại không về Trung Quốc sau
khi Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta (theo nghiên cứu sơ lược
của tác giả Đồng Đình Hiếu thuộc nhánh họ Đồng ở Liên Xương, Hiển Khánh, Vụ Bản,
Nam Định). Theo sách “Tóm tắt niên
biểu lịch sử Việt Nam” của Hà Văn Thư và Trần Hồng Đức, từ năm 1407, sau
khi tiêu diệt nhà Hồ, nhà Minh đã đổi nước ta thành quận Giao Chỉ
thuộc Trung Quốc và dưới quận được chia thành 15 phủ gồm 36 châu với 181
huyện.
6.
Bị chú
6.1.Thái Nguyên (xã Bá
Xuyên (Sông Công); xã Tân Hương thuộc huyện Phổ Yên, xã Xuân Phương thuộc huyện
Phú Bình, xã Bảo Linh huyện Định Hoá; huyện Đại Từ …); 6.8. Hải Dương
(xã Kim Đính; Liên Hòa; xã Đồng
Gia thuộc huyện Kim Thành; xã Cổ Châu, Nhân
Huệ, Triền Dương; Văn Đức thành phố
Chí Linh; Phường Ái Quốc TP. Hải Dương; xã Quang
Trung, xã Cộng Lạc, xã Nguyên Giáp thuộc huyện Tứ Kỳ; xã Phạm Mệnh thuộc huyện
Kinh Môn; huyện Nam Sách; Thanh Hà; Gia Lộc...) 6.10. Nam Định
(xã Hiển Khánh thuộc huyện Vụ Bản, xã
Nghĩa Thái, xã Nghiã Sơn, xã Nghĩa Châu
thuộc huyện Nghĩa Hưng, xã Trực Khang thuộc huyện Trực Ninh,…),
(Bài
viết do Tiến sỹ Đồng Xuân Thành, Phó trưởng ban liên lạc họ Đồng Việt Nam viết
theo nguyên cứu, quan điểm riêng của tác giả. Ban biên soạn có chỉnh lý, bổ
sung thêm).
|