Đạo Phật được truyền vào
Việt Nam từ trước Công nguyên, trải qua các thời kỳ lịch sử, yếu tố dân gian
hóa, bản địa hóa văn hóa tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo rất rõ nét. Từ thời kỳ
Hai Bà Trưng phất cờ đòi chủ quyền và độc lập dân tộc, cho đến các triều đại
Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần - Lê - Mạc -
Nguyễn, thời kỳ nào khi nghiên cứu Phật giáo, chúng ta cũng sẽ tìm thấy những yếu
tố văn hóa đặc trưng của Phật giáo Việt Nam. Trong đó, nổi bật hơn cả ở
triều Trần, có đức vua Trần Nhân Tông xuất gia tu Phật trên đỉnh Yên Tử lập nên
Thiền phái Trúc Lâm. Kể đến Thiền Điện phái Trúc Lâm không thể không bàn đến
vai trò quan trọng của Pháp Loa với Thiền phái nói riêng những đóng góp của cá
nhân Ngài trong Giáo hội Trúc Lâm cũng như tổng quan tiến trình phát triển của
văn hóa Phật giáo Việt Nam. Nhị tổ Thiền phái Trúc
Lâm - Pháp Loa xuất hiện đã làm rạng danh cho lịch sử và văn hóa Phật giáo Việt
Nam. 1. Hành trạng sự nghiệp
tu hành của Thiền sư Pháp Loa (1284 - 1330) Thiền sư sinh ra trong
dòng họ Đồng, có tên khai sinh là Đồng Kiên Cương, sinh giờ Mão, ngày 07 tháng
05 năm Giáp Thìn (1284) tại thôn Thành Đồng Hòa, hương Cửu La xã Phù Vệ ở gần
sông Nam Sách, cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Trưởng thành và được nuôi
dưỡng trong môi trường gia đình và văn hóa dòng họ, theo dòng tương tục nhân
duyên, ngay từ thuở bé Thiền sư đã có những đức tính khác thường, không nói lời
ác, không ăn thịt cá và các thức ăn cay nồng. Năm 1304, Trúc Lâm đi du
hành khắp miền thôn quê, phá bỏ các dâm từ, thuyết pháp và bố thí, lại vừa có ý
tìm người nối dòng pháp. Khi Trúc Lâm đến sông Nam
Sách thì Pháp Loa đang đi chu du vãng cảnh, thấy bồn chồn, liền quay về, vừa
lúc gặp Trúc Lâm, Pháp Loa đỉnh lễ xin xuất gia. Trúc Lâm thoạt trông thấy lấy
làm lạ, bảo: “Đứa bé này có đạo nhãn, ngày sau ắt sẽ thành bậc pháp khí”. Trúc
Lâm đặt tên cho Ngài là Thiện Lai và gửi Pháp Loa tu học với Hòa thượng Tính
Giác. Pháp Loa vốn được thừa hưởng
sự thông minh của dòng dõi họ Đồng, đến lúc có cơ duyên gặp minh sư đã năng
thưa hỏi mà học và hành cho trí não khai thông. Trong đó, đã nhiều lần vấn hỏi
những điều liên quan đến văn hóa, truyền thống dân tộc với tiến trình phát triển
của sự giác ngộ. Khi đọc Kinh Lăng nghiêm, đến đoạn “Thất xứ trung tâm, hậu
khách trần dụ: bảy lần trình bày tâm, cuối cùng đến ví dụ khách trần”, Pháp Loa
suy nghĩ trong giây lát, bỗng được thể nhập, liền xin phép trở về thăm Trúc
Lâm, gặp lúc Trúc Lâm thăng đường cử bài tụng Thái dương ô kê, thì trong lòng
chợt tỉnh. Pháp Loa trình Trúc Lâm một
bài tụng Tâm yếu, bốn lần cầu thỉnh, Trúc Lâm vẫn chưa chỉ giáo. Trở về phòng, nỗ lực Thiền
quán, đến nửa đêm, nhận thấy hoa đèn rơi, Pháp Loa đại ngộ. Liền đem chỗ sở ngộ
ấy trình lên Điều Ngự ấn chứng. Từ đó, Sư phát nguyện tu 12 hạnh đầu đà, theo
gương của Trúc Lâm. Năm 1305, Thiền sư được
Trúc Lâm cho thụ giới Tỳ kheo và Bồ Tát và ban hiệu là Pháp Loa. Suốt cuộc đời
hoằng hóa Thiền sư Pháp Loa đã quan tâm xiển dương Phật sự và hoạt động xã hội.
Thiền sư đã chú trọng diễn giảng, in ấn kinh sách là nhằm phát triển giáo dục,
nâng cao trình độ tu học cho tăng, ni, Phật tử, đồng thời Thiền sư cũng quan
tâm đến việc củng cố niềm tin tôn giáo cho giới Phật tử phổ thông bằng cách tạc
hình, đúc tượng các vị Phật và Bồ tát, tôn trí tại các ngôi già lam để cho tín
đồ tiện việc chiêm ngưỡng và lễ bái. Sử sách còn ghi chép, năm
1314, Thiền sư đã cho đúc ba tượng Phật cao 17m; năm 1327 đúc xong pho tượng Phật
Di Lặc cao 1 trượng 6 và tượng các Thánh tăng. Để tạo điều kiện cho
tăng, ni và Phật tử có nơi thuận tiện tu học và lễ bái, Thiền sư đã đứng ra
khai sơn các cảnh chùa, kiến tạo tăng xá và xây dựng các ngôi bảo tháp. Theo thống
kê thì Thiền sư đã khai sơn hai cảnh chùa lớn, xây năm ngôi tháp và kiến tạo
hơn 200 tăng xá. Bố thí, trai đàn, cầu
mưa, tháng 10 năm 1319 gặp trời hạn hán, dân chúng đói khổ, vua xuất của kho
riêng hơn 100 lượng vàng và 500 lượng bạc, giao cho Thiền sư mở hội bố thí cho
những người nghèo đói. Tháng 3 năm 1328, Thiền
sư tập hợp chư tăng 10 phương, thiết lễ Đại trai đàn khánh thành Đại tạng kinh
vừa in xong. Đại tạng này bắt đầu in từ năm 1319, sau 10 năm, công việc mới
hoàn tất. Ngoài việc lập đàn, chẩn
tế, bố thí, Thiền sư còn chú trọng các hoạt động xã hội, từ thiện hướng đến
nhân dân và người nghèo khó. Thiền sư là một người
toàn diện, về mặt nào cũng tỏ ra đầy đủ bản lĩnh. Không những lưu tâm đến việc
trao truyền giới pháp, thuyết giảng luật luận, soạn thuật kinh sách, mà Thiền
sư còn chăm lo đào tạo tăng tài, mở mang tòng lâm thắng cảnh, lưu tâm đến việc
cứu tế xã hội, v.v... Người xưa nói, có ba việc bất hủ để tiếng thơm lại cho
muôn đời, đó là: lập đức, lập công và lập ngôn. Nghĩa là để lại gương sáng đức
hạnh, sự nghiệp lợi tha và công trình trước tác. Trong ba điều ấy, quả thực,
Thiền sư đều hội đủ. 2. Những đóng góp của
Pháp Loa với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và văn hóa Phật giáo Việt Nam Trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam, Phật giáo giữ một vai trò quan trọng không chỉ bởi đã xuất hiện sớm, nhiều
thế kỷ từng được coi là quốc giáo mà còn được khẳng định ở sự gắn bó với quá
trình xây dựng, phát triển quốc gia, phổ cập tới khắp mọi vùng, miền trong cả
nước và trở thành một bộ phận cơ hữu trong đời sống văn hóa dân tộc. Đặt trong tương quan giữa
Phật giáo và văn hóa dân tộc, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử có một vị trí đặc biệt.
Trước hết cần đánh giá cao vai trò của đức vua Trần Nhân Tông (1258 - 1308)
trên tư cách bậc sư tổ với đạo hiệu Trúc Lâm Đại Đầu Đà, người đặt nền móng cho
Thiền phái Trúc Lâm. Nối tiếp Trần Nhân Tông,
Đệ Nhị tổ Pháp Loa cũng là người am hiểu Thiền học, có tài tổ chức các hoạt động
Phật giáo. Qua hơn hai mươi năm lãnh đạo, Pháp Loa đã cho san khắc bộ Đại tạng
kinh với hơn 5.000 quyển, xây dựng hàng trăm ngôi chùa như Báo Ân, Quỳnh Lâm,
Thanh Mai và trực tiếp giảng dạy giáo lý, có tới ba nghìn đệ tử đến cầu pháp và
đắc pháp. Ngài để lại các tác phẩm khuyên người xuất gia chăm lo việc tu đạo,
khuyên mọi người hiểu sâu con đường tu thiền chân chính bằng việc học giới luật,
thiền định và trí tuệ, chỉ rõ cách học cần sáng tỏ... Trong lịch sử các thiền
sư Việt Nam từ xưa đến nay, Thiền sư Pháp Loa là vị thiền sư tiêu biểu nhất, đã
quy tụ và chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm,
quy y và ủng hộ hết mình trong việc xiển dương Phật pháp. Ngài đã góp phần cùng với
đức Trần Nhân Tông trong việc thiết kế nên Giáo hội Trúc Lâm với những đặc
trưng mang đậm dấu ấn khai sáng, dấu ấn tôn giáo gắn bó với quốc gia xã hội và
dân tộc Việt Nam. Thiền sư Pháp Loa cũng là
người đã đề xuất, kết tập và tiến hành in ấn bộ Đại tạng kinh Việt Nam; Thiền
sư cũng là nhà sư đầu tiên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo,
thiết lập một tổ chức Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên; Thiền sư cũng là
người khởi xướng thiết lập sổ bộ tăng, ni và tự viện để quản lý tăng, ni, tự viện
một cách khoa học, hệ thống trên khắp cả nước. Mặc dù đến hết triều Trần,
Phật giáo không còn giữ được địa vị như giai đoạn trước, song tinh thần Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử đã kịp chuyển hóa, thấm sâu trong đời sống tinh thần dân
chúng và trở thành những giá trị văn hóa bền vững trước thời gian. Nếu văn hóa là những gì
còn lại trước thời gian thì chính các giá trị vật thể và phi vật thể liên quan
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã là một minh chứng sâu sắc cho khả năng tồn tại và
phát triển của một di sản văn hóa, bất chấp năm tháng và mọi thăng trầm thế sự.
Theo một nghĩa rộng, di sản này đã tỏa sáng thành “tâm thức Trúc Lâm” trong
lòng mỗi con người thuộc mọi thế hệ, ở khắp mọi vùng đất nước. Tất cả những điều đó cho
thấy sức sống mãnh liệt của cá nhân Thiền sư Pháp Loa nói riêng và Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử nói chung khi đã có những đóng góp lớn trong kho tàng các giá
trị văn hóa, khi đã hòa nhập được vào đời sống tinh thần dân tộc và đến với
muôn vạn tấm lòng. 3. Phát huy giá trị văn
hóa Yên Tử trong đời sống xã hội Việt Nam Phật giáo Việt Nam nói
chung, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng là một thành tố của văn hóa Việt
Nam. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
là một Thiền phái Phật giáo do các Thiền sư Việt Nam định vị mang yếu tố đặc
thù văn hóa Phật giáo đặc trưng của tiến trình phát triển của văn hóa Phật giáo
Việt Nam, do các Thiền sư Việt Nam đã chọn lọc và Việt Nam hóa được những tư tưởng
cao đẹp từ Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa. Đóng góp to lớn của Thiền
phái Trúc Lâm là ở chỗ, nó luôn đồng hành với dân tộc, là “điểm tựa tinh thần”,
góp phần củng cố và nâng cao ý thức liên kết cộng đồng, tinh thần độc lập tự chủ
của Đại Việt trước mọi thử thách cam go của lịch sử. Do vậy, trải qua hơn 700
năm phát triển Thiền phái, Kỷ niệm 690 năm đệ Nhị tổ Pháp Loa viên tịch, chúng
ta hàng hậu học lại càng có dịp soi rọi những giá trị văn hóa mà Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử để lại vẫn đang và sẽ lan tỏa mạnh được các thế hệ nối tiếp, kế
thừa và truyền bá đến nhiều quốc gia trên thế giới với những tư tưởng mang đậm
giá trị nhân văn. Đông Triều có hai cụm di
tích liên quan trực tiếp đến sự phát triển của tông phái Trúc Lâm là chùa Ngoạ
Vân và chùa Hồ Thiên. Hồ Thiên (cõi Tiên an lạc) như một sự tiếp nối và biểu
trưng cho kết quả khổ luyện, tu hành, cho cõi Niết bàn đối với những người đi
theo con đường của Trúc Lâm Tam tổ. Yên Tử - Ngoạ Vân - Hồ Thiên như vậy có thể
xem như “cõi Phật trời Nam” hết sức độc đáo ở nước ta. Trong khoảng 30 năm trở lại
đây, gắn với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là các Thiền viện Trúc Lâm do Hòa thượng
Thích Thanh Từ khởi xướng. Đây cũng là một hình thức tôn vinh, thăng hoa của
Thiền phái Trúc Lâm trong đời sống xã hội. Những ai có dịp về thăm viếng các
Thiền viện Trúc Lâm như: Đà Lạt, Yên Tử (Quảng Ninh), Tây Thiên (Vĩnh Phúc)...
đều có cảm giác hài lòng vì hoạt động tu tập ở những nơi đó được tổ chức nghiêm
minh, hình thức giảng đạo, hoằng dương giáo lý Phật giáo Trúc Lâm cũng như thực
hành Phật sự. Tuy có giản lược nhưng vẫn sâu sắc và gần gũi với văn hóa Việt
Nam. Mặt khác, kiến trúc các
Thiền viện còn kết hợp được cả hai yếu tố hiện đại và truyền thống, hài hòa với
cảnh quan thiên nhiên nhưng vẫn đáp ứng được công năng hoạt động của Phật giáo
và các nhu cầu tham quan du lịch của du khách trong nước và quốc tế. 4. Thiền sư Pháp Loa luôn
tỏa rạng Nhân dịp kỷ niệm 690 năm
đệ Nhị tổ Pháp Loa viên tịch, có mặt tại đây hàng tăng, ni, Phật tử tưởng nhớ tới
Thiền sư Pháp Loa, Ngài đã phát nguyện dũng mãnh, quyết tâm thực hiện cho kỳ được
sự nghiệp hoằng dương chính pháp, thiết lập nên một tổ chức Giáo hội Phật giáo
thống nhất đầu tiên của Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Trúc
Lâm đã thống nhất các hệ phái Phật giáo, mang bản sắc và đặc tính dân tộc, dựa
trên tinh thần nhập thế hành động, và thể nghiệm tu chứng ngay giữa lòng đời. Nhắc đến thời kỳ cực thịnh
của Phật giáo đời Trần nói chung, và một tổ chức có kỷ cương quy mô của Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng, thiết tưởng công lao của Thiền sư Pháp Loa luôn
tỏa rạng. Hiện diện 47 năm trên cõi
trần gian, ròng rã suốt 26 năm tận tụy quên mình phụng sự đạo pháp, việc tự lợi
và lợi tha đều hoàn toàn viên mãn. Cho dù tất cả các pháp hữu
vi chung cục đều tan biến theo cát bụi của thời gian, nhưng tấm gương sáng mà
Thiền sư đã để lại vẫn là một bài học quý giá, sinh động, khiến cho con cháu
nghìn sau mãi mãi xem như một thứ gia tài bất diệt. Chúng tôi tin tưởng rằng với truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, truyền thống tu học của bậc cao tăng đắc pháp như Thiền sư Pháp Loa - Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho tăng, ni, Phật tử và hậu thế tự hào về truyền thống và lịch sử phát triển của văn hóa Phật giáo Việt Nam, tự hào về Thiền phái Trúc Lâm và những đóng góp của Ngài vào sự phát triển chung của Phật giáo Việt Nam. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Minh Tường (2018), “Đóng góp của Pháp Loa đối với Phật
giáo Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 2. Thượng tọa Thích Tâm Hạnh (2017), “Bài học
từ Tổ sư Pháp Loa”, Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. 3. Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử
luận, NXB Văn học Hà Nội.
Hòa thượng, Tiến sĩ Thích Gia Quang Phó Chủ tịch Hội đồng Trị
sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam |