Ban liên lạc xin trân trọng giới thiệu với quý bà con bài phát biểu của Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội phật giáo Việt Nam về ngài Pháp loa trong buổi gặp mặt họ Đồng Việt Nam tại Chùa Phúc Thắng 26.3.2017.

Hôm nay, ngày 26.3, nhằm ngày 29/2 năm Đinh Dậu, trong ý nghĩa duyên khởi của Pháp giới, âm siêu dương thới, sự giao hòa giữa thế giới người sống và thế giới người đã mất, với tinh thần tri ân và báo ân của người con Phật, bằng tinh thần đồng cảm, tâm từ bi bình đẳng không biên giới, với nhân duyên hội đủ, Ban liên lạc Họ Đồng Việt Nam phối hợp với Chùa Phúc Thắng long trọng tổ chức Lễ hội truyền thống cầu quốc thái dân an, tưởng niệm 687 Trúc lâm đệ nhị Tổ Pháp loa niết bàn và tưởng nhớ Tổ tiên họ Đồng Việt Nam.

Trải qua nhiều trăm năm lịch sử mà tộc phả còn nối truyền, con cháu họ Đồng Việt Nam hiện có mặt ở khắp mọi vùng miền trong cả nước, có hậu duệ ở nhiều nước trên thế giới. Dòng họ Đồng ở Việt Nam tự hào có truyền thống hiếu kính tổ tiên “Chim có tổ, người có tông”, có danh nhân – khoa bảng, có văn quan – võ tướng ở các thời kỳ; đặc biệt hơn là có truyền thống tu hành, tiếc rằng chưa có tư liệu đủ đầy, cũng như chưa có thời gian tham chiếu để thống kê hết chân dung các vị tu hành trong lịch sử họ Đồng.

Từ thời kỳ Hai Bà Trưng phất cờ đòi chủ quyền và độc lập dân tộc, cho đến các triều đại Đinh – Tiền Lê- Lý – Trần- Lê- Mạc- Nguyễn, thời kỳ nào Phật giáo cũng được triều đình và nhân dân coi trọng. Đặc biệt, nổi bật hơn cả là triều Trần, có đức vua Trần Nhân Tông xuất gia tu Phật trên đỉnh Yên Tử lập nên Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Cũng chính giai đoạn này, một danh tăng họ Đồng đã làm rạng danh cho lịch sử Phật giáo Việt Nam đó là Nhị Tổ Trúc Lâm- Pháp Loa (thế danh Đồng Kiên Cương).

Trong lịch sử các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, Thiền sư Pháp Loa là một trong những vị Thiền sư tiêu biểu nhất, đã quy tụ và chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình trong việc xiển dương Phật pháp.

Thiền sư Pháp Loa cũng là người đã đề xuất, kết tập và tiến hành in ấn bộ Đại Tạng kinh Việt Nam;
Thiền sư cũng là nhà sư đầu tiên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một tổ chức Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên;

Thiền sư cũng là người khởi xướng thiết lập sổ bộ tăng, ni và tự viện để quản lý tăng, ni, tự viện một cách khoa học, hệ thống trên khắp cả nước.

Thiền sư sinh giờ Mão, ngày 07/05/Giáp Thìn (1384) tại thôn Đồng Hòa, hương Cửu La, xã Phụ Vệ ở gần sông Nam Sách, cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu.

Thuở bé Thiền sư đã có những đức tính khác thường, không nói lời độc ác, không ăn thịt cá và các thức ăn cay nồng.

Năm 1304, Trúc Lâm (Trần Nhân Tông) đi du hành khắp miền thôn quê, phá bỏ các dâm từ, thuyết pháp và bố thí, lại vừa có ý tìm người nối dòng pháp.

Khi Trúc Lâm đến sông Nam Sách thì Thiền sư đang đi chơi xa, bỗng thấy lòng bồn chồn, liền quay về, vừa lúc gặp Trúc Lâm, Thiền sư đỉnh lễ xin xuất gia. Trúc Lâm thoạt trông thấy lấy làm lạ, bảo: "Đứa bé này có đạo nhãn, ngày sau ắt sẽ thành bậc pháp khí". Trúc Lâm đặt tên cho ngài là Thiện Lai và gửi Thiền sư đến tu học với Hòa thượng Tính Giác.

Thiền sư thưa hỏi nhiều điều mà Hòa thượng vẫn chưa khai thông được; khi đọc kinh Lăng Nghiêm, đến đoạn "Thất xứ trung tâm, hậu khách trần dụ: bảy lần trình bày tâm, cuối cùng đến ví dụ khách trần", Thiền sư suy nghĩ giây lâu, bỗng được thể nhập, liền xin phép trở về thăm Trúc Lâm gặp lúc Trúc Lâm thăng đường cử bài tụng Thái Dương Ô kệ, thì trong lòng chợt tỉnh.

Thiền sư trình Trúc Lâm một bài tụng Tâm Yếu, bốn lần cầu thỉnh, Trúc Lâm vẫn chưa chỉ giáo.
Trở về phòng, nỗ lực Thiền quán, đến nửa đêm, nhận thấy hoa đèn rơi, Thiền sư bỗng nhiên đại ngộ. Liền đem chỗ sở ngộ ấy trình lên Điều Ngự ấn chứng. Từ đó, Sư phát nguyện tu 12 hạnh đầu đà, theo gương của Trúc Lâm.

Năm 1305, Thiền sư được Trúc Lâm cho thọ giới Tỳ kheo và Bồ tát và ban hiệu là Pháp Loa. Năm 1307, ngày Rằm tháng 5, sau khi Bố tát, Trúc Lâm lấy y bát và viết tâm kệ giao cho Thiền sư Pháp Loa tại Am Ngọa Vân; ngày Một tháng Giêng năm 1308, Điều Ngự chính thức trao truyền ngôi Tổ thứ hai phái Trúc Lâm cho Thiền sư tại chùa Siêu Loại. Buổi lễ này được tổ chức vô cùng trọng thể, có vua Anh Tông và triều thần đến dự đông đủ.

Trong cuộc đời tu học của mình, Thiền sư là người nổi bật nhất trong các Thiền sư Việt Nam đã trao truyền giới pháp cho hầu hết giới quý tộc, lãnh đạo quốc gia thời kỳ đó.

Trong vòng 22 năm hoạt động phật sự, Thiền sư đã mở 13 giới đàn, tiếp độ cho hàng trăm thành viên của hàng vương thân quốc thích, và khoảng 15 ngàn tăng, ni; trong đó có khoảng 3.000 đệ tử đắc pháp.

Thiền sư không chỉ quan tâm đến việc trao truyền giới pháp mà còn rất chú ý đến việc diễn giảng các bộ kinh luật quan trọng để các đệ tử hiểu rõ đường lối tu hành. Thiền sư đã mở hàng chục khóa giảng, mỗi khóa giảng, thính chúng đến nghe hằng nghìn người. Khóa nào ít nhất cũng trên năm, sáu trăm người.

Thiền sư là bậc chân tu đã có công ghi chép các tư liệu, biên tập thành sách, gồm các tập: Thạch Thất Mị Ngữ Niêm Tụng vào năm 1308; Tham Thiền Chỉ Yếu, soạn năm 1322, theo lời yêu cầu của Thượng hoàng Minh Tông;

Thiền sư còn đứng ra chủ xướng in Đại Tạng kinh, một công trình văn hóa Phật giáo nổi bật đời Trần.
Xiển dương phật sự & hoạt động xã hội: Thiền sư đã chú trọng diễn giảng, in ấn kinh sách là nhằm phát triển giáo dục, nâng cao trình độ tu học cho tăng, ni, phật tử, đồng thời Thiền sư cũng quan tâm đến việc củng cố niềm tin tôn giáo cho giới phật tử phổ thông bằng cách tạc hình, đúc tượng các vị Phật và Bồ tát, tôn trí tại các ngôi già lam để cho tín đồ tiện việc chiêm ngưỡng và lễ bái.

Sử sách còn ghi chép, năm 1314, Thiền sư đã cho đúc ba tượng Phật cao 17m; năm 1327 đúc xong pho tượng Phật Di-lặc cao 1 trượng 6 và tượng các Thánh Tăng.

Để tạo điều kiện cho tăng, ni và phật tử có nơi thuận tiện tu học và lễ bái, Thiền sư đã đứng ra khai sơn các cảnh chùa, kiến tạo Tăng xá và xây dựng các ngôi Bảo tháp. Theo thống kê thì Thiền sư đã khai sơn hai cảnh chùa lớn, xây năm ngôi tháp và kiến tạo hơn 200 tăng xá.

Bố thí, trai đàn, cầu mưa, tháng 10 năm 1319 gặp trời hạn hán, dân chúng đói khổ, vua xuất của kho riêng hơn 100 lượng vàng và 500 lượng bạc, giao cho Thiền sư mở hội bố thí cho những người nghèo đói.

Tháng 3 năm 1328, Thiền sư tập họp chư tăng 10 phương, thiết lễ Đại trai đàn khánh thành Đại Tạng kinh vừa in xong. Đại Tạng này bắt đầu in từ năm 1319, sau 10 năm, công việc mới hoàn tất.

Ngoài việc lập đàn, chẩn tế, bố thí, Thiền sư còn chú trọng các hoạt động xã hội, từ thiện hướng đến nhân dân và người nghèo khó.

Thiền sư là một người toàn diện, về mặt nào cũng tỏ ra đầy đủ bản lĩnh. Không những lưu tâm đến việc trao truyền giới pháp, thuyết giảng luật luận, soạn thuật kinh sách, mà Thiền sư còn chăm lo đào tạo tăng tài, mở mang tùng lâm thắng cảnh, lưu tâm đến việc cứu tế xã hội v.v… Người xưa nói, có ba việc bất hủ để tiếng thơm lại cho muôn đời, đó là: lập đức, lập công và lập ngôn. Nghĩa là để lại gương sáng đức hạnh, sự nghiệp lợi tha và công trình trước tác. Trong ba điều ấy, quả thực, Thiền sư đều hội đủ...

Hôm nay, có mặt tại đây con cháu họ Đồng đã có dịp tưởng nhớ Tổ tiên ông bà và tưởng nhớ tới Thiền sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương , Ngài đã phát nguyện dũng mãnh, quyết tâm thực hiện cho kỳ được sự nghiệp hoằng dương chính pháp, thiết lập nên một tổ chức Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam.

Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm đã thống nhất các hệ phái Phật giáo, mang bản sắc và đặc tính dân tộc, dựa trên tinh thần nhập thế hành động, và thể nghiệm tu chứng ngay giữa lòng đời.

Nhắc đến thời kỳ cực thịnh của Phật giáo đời Trần nói chung, và một tổ chức có kỷ cương quy mô của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng, thiết tưởng công lao của Thiền sư Pháp Loa luôn tỏa rạng.

Hiện diện 47 năm trên cõi trần gian, ròng rã suốt 26 năm tận tụy quên mình phụng sự đạo pháp, việc tự lợi và lợi tha đều hoàn toàn viên mãn.

Ngược dòng thời gian trong phả tộc nhiều trăm năm của họ Đồng trên xứ sở thân yêu, còn có rất nhiều người tu hành có thế danh và dòng máu họ Đồng; thời hiện tại cũng còn nhiều con em họ Đồng xuất gia ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, nhưng do chưa có thời gian tìm hiểu, thống kê một cách cụ thể để nối truyền tộc phả, đó cũng quả là một thiếu sót cần được bổ túc.

Truyền thống tốt đẹp của Tổ tiên, truyền thống tu học của bậc cao tăng đắc pháp như Thiền sư Pháp Loa - Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho tăng, ni, phật tử và hậu duệ của dòng tộc họ Đồng Việt Nam tự hào về truyền thống tổ tiên mình.

Với lòng tưởng niệm vô biên, biết ơn vô hạn, xin cầu nguyện cho các hương linh các tổ tiên,ông bà họ Đồng,các Anh hùng liệt sỹ, những con cháu họ Đồng đã khuất luôn được an nhàn. Nơi Chùa Chùa Phúc Thắng này,dòng tộc họ Đồng Việt Nam cầu mong cho các hương linh của tổ tiên, con cháu họ Đồng đã khuất hãy an nghỉ cho ngàn thu in bóng, hình hài hòa quyện với non sông, đất nước và sẽ sống mãi trong lòng dòng tộc họ Đồng Việt Nam. Với tấm lòng tưởng niệm vô biên, biết ơn vô hạn, đồng cảm vô cùng vô tận, lòng từ bi chan hòa Pháp giới, bằng Phật lực gia trì, năng lực chú nguyện của Chư tôn đức tăng ni cũng như của gần 700 con cháu trong dòng họ tụ hội về nơi đây, sẽ giao cảm với các hương linh của những người họ Đồng Việt Nam đã khuất.
Họ Đồng Việt Nam chúng con xin nguyện một lòng đoàn kết, sống nương tựa vào nhau, đùm bọc nhau, vượt qua mọi khó khăn để trụ vững và trường tồn trên quê hương mình, tiếp tục nỗ lực xây dựng dòng tộc và xã hội Việt Nam công bằng, dân chủ, văn minh, tốt đời đẹp đạo trong thời kỳ hội nhập và phát triển...

Một số hình ảnh tại buổi Lễ: